Thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam

Thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.

Bước sang thế kỷ XXI, thế giới có sự chuyển mình và phát triển mạnh mẽ đạt được những thành tựu vĩ đại ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Hàng loạt các tổ chức kinh tế đa quốc gia như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); Nhóm các nền kinh tế lớn (G20), Nhóm 05 nước phát triển (G5); Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS); Cộng đồng kinh tế ASEAN… ngày càng phát triển cả về quy mô, mở rộng tầm ảnh hưởng góp phần đưa nền kinh tế của từng quốc gia thành viên và của toàn thế giới phát triển hơn. Hòa chung vào xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa, Đảng ta nhận định công cuộc hội nhập thế giới là chính sách chiến lược, lâu dài và là phương hướng đúng đắn phù hợp với sự phát triển chung của thế giới.

Với sự nỗ lực không ngừng, sau rất nhiều cuộc đàm phán song phương và đa phương, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007. Thành quả không thể không nhắc đến trong công cuộc hội nhập hóa nền kinh tế khi cuối năm 2015, đầu năm 2016 vừa qua chúng ta đã đàm phán và ra nhập thành công ba tổ chức kinh tế gồm: Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào tháng 12/2015, tháng 8/2015 với việc đạt được những thỏa thuận mang tính nguyên tắc của hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và kết thúc đàm phán hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào tháng 10 – 2015 Việt Nam đã chứng minh được vị thế ngày càng lớn trên trường quốc tế.

Với việc trở thành một trong những thành viên sáng lập, thành viên tích cực của các tổ chức kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam có nhiều cơ hội để vươn xa hơn nhưng cũng đồng thời đối mặt với nhiều thách thức, nhiều rủi ro hơn. Các hoạt động thương mại, xúc tiến thương mại sẽ diễn ra sôi nổi hơn, mạnh mẽ hơn và cũng đa dạng hơn, đặc biệt là hoạt động về nhượng quyền thương mại.

Hoạt động nhượng quyền thương mại tuy mới xuất hiện tại thị trường Việt Nam hơn một thập kỷ qua nhưng đã nhận được sự chú ý từ giới thương nhân, từ người tiêu dùng bởi các lợi ích hoạt động này mang lại. Tuy nhiên, chính sự phát triển quá nhanh sẽ dẫn đến nhiều tranh chấp, các bên muốn kiểm soát nhau để bảo vệ cho mình dẫn đến việc TTHCCT nhau. Về bản chất, điều này làm xâm phạm đến một trong những nguyên tắc về tự do kinh doanh.

Pháp luật Việt Nam cũng có những điều chỉnh nhất định về hoạt động nhượng quyền cũng như điều chỉnh về các TTHCCT, về tổng thể đã tạo được một khuôn khổ pháp lý vững chắc, các cơ chế mở tạo điều kiện phát triển cho hoạt động nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, tính đặc thù riêng về hoạt động nhượng quyền chưa thật sự cụ thể, rõ ràng.

Do đó việc nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về TTHCCT, đặc biệt là TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại trong bối cảnh mới, bối cảnh hội nhập, khu vực hóa – quốc tế hóa nền kinh tế là vô cùng quan trọng và cần thiết tại thời điểm này. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn góp một phần nhỏ trong nghiên cứu khoa học, là nguồn tài liệu tham khảo trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam hiện nay.

Đã có những công trình nghiên cứu được nhiều tác giả tìm hiểu dưới các hình thức Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ hay các bài viết trên tạp chí, phải kể đến như: Vũ Đặng Hải Yến (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Nhung (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn về điều chỉnh pháp luật đối với các TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội; Nguyễn Thị Kim Huệ (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Bùi Ngọc Cường (2007), “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Nguyễn Thanh Tú (2007), “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Mối quan hệ giữa hoạt động nhượng quyền thương mại và các TTHCCT”, Tạp chí Luật học; Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), Các TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Thị Tình (2014), “Ràng buộc bán kèm trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu; Nguyễn Thị Tình (2014), “Pháp luật điều chỉnh hành vi ấn định giá bán”, Tạp chí dân chủ và pháp luật; Trường Đại học Thương Mại (2011), Tăng cường sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại thông qua pháp luật điều chỉnh hạn chế cạnh tranh, Đề tài nghiên cứu khoa học; ….

Các công trình kể trên mới chỉ phân tích mang tính tổng quát về từng vấn đề “hoạt động nhượng quyền thương mại” hay “TTHCCT” mà chưa thực sự có những phân tích chuyên sâu về cả hai vấn đề “TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”. Chính vì vậy, có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài “TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam” là có tính mới.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích xuyên suốt của Luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên các nhiệm vụ được xác định trong luận văn cụ thể như sau:

  • Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại như tìm hiểu khái niệm, phân loại, những đặc trưng pháp lý của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
  • Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng nhượng quyền như khái niệm, đặc điểm, nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại.
  • Từ việc tìm hiểu những cái chung đi đến việc tìm hiểu cái riêng, cái cụ thể chính là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
  • Tìm hiểu thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Qua việc tìm hiểu thực trạng để chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành.
  • Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng một cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, các tư tưởng luật học, và các quy định pháp luật hiện hành về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh áp dụng cho hoạt động nhượng quyền thương mại, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn này, trên cơ sở tìm hiểu, phân tích những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, liên hệ thực tiễn tác giả chỉ ra những những hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng những quy định pháp luật đó. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại trên cơ sở học hỏi tiếp thu tiến bộ của các nước trên thế giới phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Phương pháp nghiên cứu

Tác giả tiếp cận vấn đề dựa trên phương pháp duy vật biện chứng cũng như các quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng, của Nhà nước ta. Trên cơ sở tiếp cận từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể và sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, bình luận, thống kê chứng minh…

Luận văn cũng khai thác những thông tin, tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh, giải thích cho luận điểm được phân tích.

Bố cục bài viết

Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm 03 chương như sau:

  • Chương 1: Những vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
  • Chương 2: Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
  • Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

1,1. Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

1.1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Để hiểu được thế nào là TTHCCT, trước hết phải hiểu được ý nghĩa cụm từ “thỏa thuận”. Vậy thỏa thuận là gì?

Thỏa thuận không chỉ không chỉ là một hành vi mô tả chính thức bằng văn bản về các điều khoản và điều kiện cho sự hợp tác.

Một thỏa thuận có thể là: Một thỏa thuận chính thức giữa các doanh nghiệp; Một quyết định đưa ra bởi hiệp hội của các doanh nghiệp: thay thế thỏa thuận giữa các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội, phù hợp cam kết chung của hiệp hội đó. Khi các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình đưa ra quyết định thì quyết định của hiệp hội cũng chính là quyết định của các thành viên của hiệp hội đó; hoặc một cam kết đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia mà không thể hiện bằng văn bản.

Để một hành vi hoặc một tập hợp các hành vi cấu thành một thỏa thuận thì điều phải luôn ghi nhớ là khi nào có sự thống nhất về ý chí, khi đó có thỏa thuận. Các hành vi giống nhau của các doanh nghiệp chưa đủ để chứng minh là đã có thỏa thuận giữa họ với nhau [2, tr.14].

Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Khi chấp nhận chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam phải chấp nhận những quy luật của nền kinh tế thị trường trong đó có quy luật về cạnh tranh. Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn phải nỗ lực hết mình để có thể hơn đối thủ. Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp coi quy luật cạnh tranh như một mối nguy hại cho lợi nhuận và sự phát triển. Thay vì việc họ nỗ lực thay đổi, cải thiện quy trình sản xuất kinh doanh của mình hướng tới người tiêu dùng và tạo nền tảng phát triển bền vững thì họ tìm đến nhau để thỏa thuận, phân chia cho nhau để đảm bảo lợi ích hai bên không bị tổn hại hoặc tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp. Điều này vô hình trung đã gây hậu quả tất yếu trước hết là những người tiêu dùng, sau là ảnh hưởng sự phát triển kinh tế, hình thành sự độc quyền nhất định trong thị trường.

Từ các nhìn nhận đánh giá, pháp luật cạnh tranh các nước trên thế giới đều có những quy định điều chỉnh những hành vi TTHCCT.

Khoản 1 điều 81 Hiệp ước Rome nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định của hiệp hội doanh nghiệp và mọi hành động phối hợp có khả năng ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia thành viên và có mục đích hoặc hệ quả phản cạnh tranh.

Ở Châu Âu, TTHCCT quy định tại điều 101 của Hiệp ước thành lập Liên minh châu Âu như sau:

Mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, các quyết định của hiệp hội các doanh nghiệp và mọi hành vi liên kết khác có thể ảnh hưởng đến thương mại giữa các thành viên và có mục đích hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường của liên minh, đều bị coi là đi ngược lại với mục đích thành lập thị trường chung và bị cấm [5, tr.4].

Tại Nhật Bản, khoản 6, điều 2, Luật Chống độc quyền quy định:

Hạn chế thương mại bất hợp lý là các hoạt động kinh doanh mà thông qua đó bất kỳ doanh nghiệp nào bằng hợp đồng, thỏa thuận hay bất kỳ các hoạt động thông đồng khác, không phụ thuộc tên gọi, cùng hạn chế hay tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ theo cách thức cố định giá, duy trì tăng giá, hoặc để giới hạn sản xuất công nghệ, sản phẩm, cơ sở sản xuất hay khách hàng hoặc giao dịch của các đối tác, gây ra hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, đi ngược lại với lợi ích chung [5, tr.4].

Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh không đưa ra định nghĩa thế nào là TTHCCT mà thay vào đó luật liệt kê 8 Loại TTHCCT [13, Điều 8].

Điều 8. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh

Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:

1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;

3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;

4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;

7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;

8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Theo Luật Cạnh tranh thì TTHCCT là thỏa thuận giữa hai hay nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh có tác động làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Theo đó luật không quy định về hình thức thỏa thuận (văn bản hay bằng miệng, công khai hay ngầm) cũng như mục đích của thỏa thuận [5, tr.5]. Khi xem xét một thỏa thuận có bị coi là TTHCCT không thì chỉ cần xét xem thỏa thuận đó có mục đích thực hiện một hoặc một số hành vi nêu tại Luật Cạnh tranh hay không.

1.1.2. Những đặc trưng pháp lý cơ bản của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Để hiểu cụ thể về TTHCCT và có thể phân biệt được hành vi TTHCCT với những hành vi khác thì trước hết phải nhận dạng được hành vi TTHCCT thông qua những đặc trưng pháp lý cơ bản sau:

Thứ nhất, TTHCCT là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp là chủ thể trong quan hệ TTHCCT [19].

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được hiểu là các tổ chức, cá nhân kinh doanh bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Như vậy, trường hợp công ty mẹ – công ty con, hay giữa công ty với đại lý của mình có sự thỏa thuận thì không coi là TTHCCT.

Doanh nghiệp là chủ thể tạo nên và quyết định mức độ cũng như hình thức của cạnh tranh, đồng thời, cũng chính các doanh nghiệp có thể gây hạn chế, giảm bớt hay thậm chí triệt tiêu cạnh tranh do chính mình tạo ra bằng các thỏa thuận. Các TTHCCT có thể là giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau hoặc có thể là giữa những doanh nghiệp có mối liên hệ với nhau trong cùng một chuỗi sản xuất hay cung ứng sản phẩm, dịch vụ.

Thứ hai, giữa các doanh nghiệp có thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Thoả thuận là đặc trưng pháp lý cơ bản và là yếu tố cấu thành hành vi quan trọng, được hiểu là sự thống nhất ý chí giữa các bên tham gia [19].

Trong TTHCCT đòi hỏi phải có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên tham gia thỏa thuận thông qua sự thể hiện và thống nhất ý chí của những người có thẩm quyền và hướng tới mục đích hạn chế cạnh tranh. Các doanh nghiệp tham gia TTHCCT có thể nhằm cùng một mục đích hoặc nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, dù với mục đích nào thì doanh nghiệp đã có sự thống nhất ý chí về cùng thực hiện một hành động nào đó đều bị coi là hành vi TTHCCT.

Vì vậy, TTHCCT thường là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng giữa các bên tham gia với nhau liên quan đến một hoặc một số nội dung hay yếu tố nào đó của thị trường. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các bên tham gia không trực tiếp thỏa thuận với nhau mà gián tiếp đạt được sự thoả thuận thông qua các nghị quyết, quyết định hay hành động chung của Hiệp hội mà các bên là thành viên. Sở dĩ trường hợp này cũng được coi là thoả thuận bởi khi các doanh nghiệp tham gia và là thành viên của hiệp hội, tự nguyện chấp nhận hay đồng tình theo những cam kết hay chủ trương chung của hiệp hội, chấp nhận cho phép hiệp hội được đưa ra nghị quyết, quyết định hoặc hành động chung và bản thân các doanh nghiệp thành viên tuân thủ theo thì đó cũng chính là một sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp thành viên đã đạt được.

Hình thức của thỏa thuận dạng kiểu như vậy gần như mang tính chất uỷ quyền quyết định cho hiệp hội do vậy có giàng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý với các thành viên. Ngoài ra, thoả thuận hạn chế cạnh tranh còn có thể biểu hiện dưới dạng các cam kết tuân thủ hay đáp ứng những yêu cầu do một hoặc một số bên đặt ra. Trong thực tế, có trường hợp các doanh nghiệp thực hiện những hành vi giống nhau nhưng không vì thế mà có thể kết luận giữa các doanh nghiệp có sự thoả thuận bởi có thể đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên trên cơ sở tính toán và đưa ra quyết định một cách độc lập của từng doanh nghiệp. Chỉ có thể quy kết là có sự tồn tại một thoả thuận nếu có thông tin, chứng cứ cho thấy rằng giữa các doanh nghiệp đã có sự gặp gỡ, trao đổi và thống nhất giữa ý chí, hay nói cách khác các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói và hành động chung mà không bị tác động bởi bất cứ lý do nào.

Thứ ba, mục đích của thoả thuận là nhằm hạn chế cạnh tranh [19].

Mục đích của các bên tham gia thỏa thuận là làm giảm sức ép cạnh tranh hay chính là hạn chế cạnh tranh và thông qua đó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận, cho các doanh nghiệp tiềm năng, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và toàn xã hội.

Đối với khách hàng, lợi ích trực tiếp bị thiệt hại là không được hưởng các sản phẩm với chất lượng tốt hơn và mức giá cả phù hợp hơn. Đối với doanh nghiệp không tham gia thoả thuận có nguy cơ mất cơ hội kinh doanh, bị loại ra khỏi thị trường. Với sự liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua một TTHCCT tạo nên sức mạnh khống chế và buộc khách hàng phải tuân theo những luật chơi do các doanh nghiệp này tạo ra không dựa trên cơ sở quy luật của thị trường. Ngoài ra, bằng việc TTHCCT, các doanh nghiệp tham gia thoả thuận cũng có thể áp đặt những điều kiện bất lợi trong các giao dịch với những doanh nghiệp ngoài thoả thuận.

Thứ tư, TTHCCT được biểu hiện dưới một hình thức nhất định [19].

Hình thức biểu hiện của TTHCCT không được coi là tiêu chí bắt buộc, có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản, chính thức hay không chính thức. Tuy nhiên, trong thực tế việc xác định hình thức biểu hiện của TTHCCT lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều tra và xử lý đối với các hành vi TTHCCT bị cấm, cho dù hình thức biểu hiện của thoả thuận hạn chế cạnh tranh không làm ảnh hưởng đến hậu quả pháp lý của các hành vi TTHCCT bị cấm. TTHCCT có thể được biểu hiện dưới các hình thức như bằng miệng hoặc văn bản, thoả thuận ngầm hay thoả thuận công khai dưới các loại như hợp đồng, nghị quyết, quyết định, nội quy của các hiệp hội.

Việc xác định hình thức biểu hiện của các TTHCCT không ảnh hưởng đến hậu quả pháp lý nhưng có khả năng ảnh hưởng tới mức độ thành công của việc chứng minh thỏa thuận. Nếu thoả thuận hạn chế cạnh tranh được thể hiện thông qua hình thức văn bản như hợp đồng, biên bản cuộc họp, quyết định, nghị quyết, các trao đổi điện thoại, fax, email… thì việc thu thập chứng cứ và chứng minh sẽ dễ dàng hơn. Vấn đề sẽ trở nên khó khăn nếu TTHCCT là các thỏa thuận ngầm. Khi đó cần phải dựa vào các loại chứng cứ gián tiếp nên việc chứng minh sẽ khó khăn hơn.

Thứ năm, hậu quả của TTHCCT là làm giảm, làm sai lệch hay cản trở hoặc thậm chí triệt tiêu các hoạt động cạnh tranh bình thường trên thị trường [19].

Thỏa thuận cạnh tranh gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ không còn cạnh tranh nữa. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận.

Tuy nhiên, hậu quả này có thể đã xảy ra hoặc chưa xảy ra. TTHCCT chỉ đòi hỏi đảm bảo các yếu tố cấu thành về mặt hình thức. Khi xác định hành vi TTHCCT không cần xét đến hậu quả thực tế mà chỉ cần xác định hậu quả về mặt hình thức. Hậu quả thực tế chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ trách nhiệm pháp lý hay mức phạt.

1.1.3. Phân loại thỏa thuận cạnh tranh

Hiện nay dựa trên cơ sở khác nhau chúng ta lại có các cách thức để phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:

  • Trên cơ sở mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận, người ta chia các hành vi thoả thuận ra 2 nhóm: thoả thuận theo chiều ngang và thoả thuận theo chiều dọc. Thỏa thuận ngang là thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh và thỏa thuận dọc là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp bổ trợ lẫn nhau [2, tr.14].

Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp có cùng ngành hàng hoạt động trên cùng một thị trường liên quan như thỏa thuận giữa các nhà sản xuất hay giữa những nhà những nhà bán buôn hoặc giữa những nhà bán lẻ của những loại sản phẩm tương tự nhau. Nội dung của thỏa thuận liên quan đến ấn định giá mua bán hàng hóa, dịch vụ, phân chia thị trường, ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường, thông đồng trong đấu thầu, hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ.

Thỏa thuận theo chiều dọc là các thỏa thuận liên quan đến việc bán lại những sản phẩm từ nhà sản xuất hay nhà cung cấp, do đó nó diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm như thỏa thuận giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Thỏa thuận theo chiều dọc không tạo ra khả năng khống chế thị trường. Các thỏa thuận phổ biến theo chiều dọc thường có các nội dung: phân phối độc quyền theo lãnh thổ, giao dịch độc quyền, buộc các doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới phân phối của nhà sản xuất…; thỏa thuận ấn định giá bán lại.

  • Theo pháp luật Cạnh tranh của Việt Nam, có thể chia thành hai loại: thỏa thuận bị coi là trái pháp luật một cách đương nhiên và thỏa thuận bị coi là trái pháp luật một cách có điều kiện [1, tr.13].

Thỏa thuận bị coi là trái pháp luật một cách có điều kiện gồm có:

  •  Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
  •  Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
  •  Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;
  •  Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
  •  Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

Mặc dù đây được coi là TTHCCT nhưng dựa vào tính chất các thỏa thuận đó nên Luật quy định các thỏa thuận này chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan chiếm ít nhất 30%, trừ trường hợp Thủ tướng Chính phủ cho phép được tiến hành các thỏa thuận khi đáp ứng điều kiện nhất định quy định tại điều 10 của Luật và nhằm mục đích hạ giá thành và có lợi cho người tiêu dùng.

Thị phần: là tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường của một doanh nghiệp trên một thị trường nhất định. Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm [3, tr.266].

Thị phần kết hợp: là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế [3, tr.266].

Thị trường liên quan là khái niệm được sử dụng trong phân tích cạnh tranh để chỉ giới hạn thị trường nơi diễn ra các hoạt động cạnh tranh thuộc sự quan tâm của pháp luật cạnh tranh. Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan [3, tr.265].

Thỏa thuận bị coi là trái pháp luật một cách đương nhiên bao gồm: (khoản 6, 7, 8 điều 8 Luật Cạnh tranh)

  •  Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
  •  Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận;
  •  Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

Thỏa thuận trong nhóm này là thỏa thuận đương nhiên bị cấm trong mọi trường hợp và không có ngoại lệ. Các thỏa thuận này đều được luật cạnh tranh các quốc gia trên thế giới quy định khá nghiêm ngặt.

1.2. Về hợp đồng nhượng quyền thương mại

1.2.1. Khái niệm về hợp đồng nhượng quyền thương mại

HĐNQTM được chính thức ghi nhận bằng sự kiện năm 1851, lần đầu tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành người tiên phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền.

Sau sự kiện này, nhượng quyền thương mại đã bắt đầu phát triển và lan rộng toàn thế giới. Dựa vào cách thức quản lý khác nhau trên thế giới về nhượng quyền thương mại mà đã có những khái niệm khác nhau về nhượng quyền thương mại. Cụ thể:

Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise Association) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới) đã nêu ra khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:

Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình [30].

Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal Trade Commission – FTC): HĐNQTM là hợp đồng theo đó Bên giao:

(i) Hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận.

(ii) Li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên giao và

(iii) Yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu.

Quan niệm Liên minh châu Âu (EU):

Quyền thương mại là một “tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng. Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được Khái niệm ở trên [30].

Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô quy định:

Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng (prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó [30].

Bộ luật dân sự Nga quy định:

HĐNQTM là hợp đồng mà một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối vớibí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ,.. [30].

Có thể thấy rằng, các điểm chung trong tất cả những khái niệm nêu trên là việc một Bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát triển và sở hữu; để được phép làm việc này, Bên nhận phải trả phí và chấp nhận một số hạn chế do Bên giao quy định.

Tại Việt Nam, Khái niệm nhượng quyền thương mại được đề cập tại Điều 284 Luật Thương mại 2005 như sau:

Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh [14, Điều 284].

Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, nhận thấy khái niệm này có nét tương đồng với pháp luật của Liên minh châu Âu cũng như một số nước trên thế giới.

HĐNQTM cũng giống như các loại hợp đồng thông thường khác, là sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động nhượng quyền và cũng chính là căn cứ, cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Pháp luật Việt Nam không đưa ra một định nghĩa nào về HĐNQTM. Điều 285 Luật Thương mại 2005 với tiêu đề “HĐNQTM” chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng này. Như vậy, có thể hiểu, trên phương diện pháp luật, HĐNQTM là loại hợp đồng được các thương nhân ký kết trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, cụ thể là thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại [21, tr.11].

1.2.2. Đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại

Thứ nhất, về chủ thể. Gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhận quyền và bên nhượng quyền đều phải là thương nhân, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.

Những đặc trưng về chủ thể này của HĐNQTM làm cho HĐNQTM có những đặc điểm khác biệt so với các loại hợp đồng khác. Quan hệ nhượng quyền không chỉ dừng lại giữa một bên nhượng quyền và một bên nhận quyền mà còn xuất hiện thêm nhiều bên nhận quyền khác nữa tạo thành một hệ thống nhượng quyền thương mại, xuất phát từ sự khác biệt của quan hệ nhượng quyền này làm cho chủ thể của loại hợp đồng này cũng khác với các hợp đồng khác. Bên nhận quyền thứ hai là bên nhận lại quyền kinh doanh thương mại của bên nhượng quyền từ bên nhận quyền thứ nhất. Trong trường hợp này, các bên lại phải có những thoả thuận, phù hợp với quyền và lợi ích.

Thứ hai, đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của HĐNQTM là “quyền thương mại”. Theo đó, bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền dưới sự kiểm soát và trợ giúp của bên nhượng quyền.

Thứ ba, về nội dung của hợp đồng. Nội dung của HĐNQTM là các điều khoản do các bên thỏa thuận, xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Khi tham gia hợp đồng này thì các bên sẽ trao đổi với nhau những quyền mà mình được hưởng đồng thời trao đổi với nhau về những nghĩa vụ mà mình phải thực hiện. Đây là một trong những đặc trưng nổi bật của HĐNQTM.

Thứ tư, về hình thức hợp đồng. HĐNQTM phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Quy định rõ ràng về hình thức của HĐNQTM, bắt buộc các bên chủ thể phải thể hiện loại hợp đồng này dưới dạng văn bản cũng chính là một trong những cách thức bảo vệ các thương nhân khỏi những rủi ro có thể xảy ra.

1.2.3. Nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại

Pháp luật chỉ đưa ra các nội dung cơ bản, chủ yếu tạo ra xương sống cho hợp đồng, còn các bên sẽ thỏa thuận chi tiết cho phù hợp với điều kiện của mình. HĐNQTM có thể có 6 nội dung sau đây [9, Điều 11]:

  • Nội dung của nhượng quyền thương mại [9, Điều 11, khoản 1]

Đây chính là điều khoản xác định đối tượng của hợp đồng, được coi là trung tâm của hợp đồng, nó có ảnh hưởng tới mọi điều khoản khác trong hợp đồng.

  • Quyền và nghĩa vụ của các bên [9, Điều 11, khoản 2]

Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bên nhượng quyền và bên nhận quyền do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì theo điều 286, 287, 288, và 289 Luật Thương mại 2005, các bên có quyền và nghĩa vụ sau đây:

Đối với bên nhượng quyền:

Thương nhân nhượng quyền có 3 quyền cơ bản: Thứ nhất, nhận tiền nhượng quyền; Thứ hai, tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới nhượng quyền thương mại; Thứ ba, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận nhượng quyền đảm bảo sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định của chất lượng hàng hóa, dịch vụ.

Đối với bên nhận quyền:

Quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền được quy định tại Điều 288, 289 Luật Thương mại 2005. Nhìn chung bên nhận quyền “yếu thế” hơn bên nhượng quyền vì bên nhượng quyền là chủ sở hữu của các đối tượng nhượng quyền mà bên nhận được chuyển giao để sử dụng. Vì thế nghĩa vụ của bên nhận nhượng quyền cũng đặt ra nhiều hơn. Các nghĩa vụ đặt ra như nghĩa vụ tài chính trả tiền nhượng quyền, các khoản thanh toán khác theo hợp đồng nhượng quyền thương mại. Nghĩa vụ đảm bảo sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền như: đầu tư cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao và điều hành hoạt động chúng cho phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại; … Đây là nghĩa vụ rất quan trọng mà bên nhận nhượng quyền phải thực hiện một cách thật nghiêm túc kể cả khi hợp đồng đã chấm dứt. Ngoài ra bên nhận quyền không được phép nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền. Việc nhượng quyền lại cho bên thứ ba được Luật Thương mại 2005 quy định tại Điều 290. Chính vì bên nhận nhượng quyền phải gánh chịu những nghĩa vụ nên đòi hỏi bên nhượng quyền phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với bên nhận nhượng quyền để đảm bảo các quyền lợi của bên nhận nhượng quyền đồng thời đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ hợp đồng nhượng quyền.

  • Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán [9, Điều 11, khoản 4]

Điều khoản này do các bên thỏa thuận. Pháp luật không quy định mức giá cố định cho từng hàng hóa mà các bên căn cứ vào uy tín của hàng hóa, khu vực nhượng quyền và nhu cầu của thị trường, … để quyết định giá, phí thanh toán. Đồng thời lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp với điều kiện của các bên. Pháp luật quy định như vậy đảm bảo quản lý ở tầm vĩ mô không can thiệp quá sâu vào quan hệ giữa các bên.

  • Thời hạn hiệu lực và gia hạn hợp đồng [9, Điều 11, khoản 5]

Pháp luật Việt Nam không quy định một thời hạn cố định mà thời hạn của hợp đồng do các bên tự quyết định. Bên cạnh đó tại Điều 13 Nghị định 35 cũng quy định: Hợp đồng có thể chấm dứt trước thời hạn trong trường hợp quy định tại Điều 16 của Nghị định, đó là các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng. Nghị định 35 cũng quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tại Điều 14 theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu không có sự thỏa thuận khác thì HĐNQTM có hiệu lực tức thời tại thời điểm giao kết. Ngoài ra, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng Theo Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015.

Khi hợp đồng hết thời hạn các bên có thể thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Đồng thời các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn hết hiệu lực của hợp đồng.

  • Chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại [9, Điều 11, khoản 6]

Thông thường HĐNQTM sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:

* Hết thời hạn thực hiện hợp đồng mà các bên không có thỏa thuận gia hạn.

* Hợp đồng chưa hết thời hạn thực hiện nhưng các bên có thỏa thuận chấm dứt.

* Một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Việc quy định quyền năng này để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra cho bên bị vi phạm. Theo Điều 16 Nghị định 35 các bên có quyền đơn phương chấm dứt HĐNQTM trong các trường hợp sau:

  •  Đối với bên nhận quyền:Bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt HĐNQTM trong trường hợp bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ sau: (i) cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho bên nhận quyền; (ii) đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại; (iii) thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của thương nhân nhận quyền; (iv) bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền; (v) đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền thương mại.
  •  Đối với bên nhượng quyền: Bên nhượng quyền có quyền đơn phương chấm dứt HĐNQTM trong các trường hợp sau: (i) Bên nhận quyền không còn giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương mà theo quy định của pháp luật bên nhận quyền phải có để tiến hành công việc kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại; (ii) Bên nhận quyền bị giải thể hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam; (iii) Bên nhận quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng có khả năng gây thiệt hại lớn cho uy tín của hệ thống nhượng quyền thương mại; (iv) Bên nhận quyền không khắc phục những vi phạm không cơ bản trong HĐNQTM trong một thời gian hợp lý, mặc dù đã nhận được thông báo bằng văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm đó từ bên nhượng quyền.
  • Giải quyết tranh chấp

HĐNQTM là một loại hợp đồng trong thương mại nên cơ chế giải quyết tranh chấp cho hợp đồng này cũng giống cơ chế giải quyết tranh chấp cho những hợp đồng trong thương mại khác. Điều 317 Luật thương mại 2005 quy định hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bao gồm: thương lượng, hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải; giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, các bên trong HĐNQTM có quyền tự do lựa chọn một trong bốn hình thức giải quyết tranh chấp nói trên để giải quyết các tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.

1.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại và mối liên hệ

1.3.1. Khái niệm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Như nội dung đã phân tích ở hai mục 1.1 và 1.2 của chương này về TTHCCT và HĐNQTM có thể thấy việc xuất hiện các TTHCCT trong hợp đồng thương mại cũng giống với nguyên nhân dẫn tới TTHCCT nói chung là đều xuất phát từ việc tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, tối đa hóa lợi nhuận của hệ thống kinh doanh nhượng quyền.

Hành vi TTHCCT trong HĐNQTM được hiểu là sự thỏa thuận giữa ít nhất hai bên trong hệ thống nhượng quyền nhằm làm sai lệch, cản trở cạnh tranh. Mục đích hành vi chính là gây hạn chế cạnh tranh hoặc loại bỏ những cạnh tranh trong hệ thống nhượng quyền hoặc của các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống.

Về hình thức thể hiện, như đã phân loại ở phần trên, thỏa thuận cạnh tranh có hai loại là thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc. Ở khía cạnh mạng lưới phân phối của hệ thống nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền và bên nhượng quyền có thể đồng thời tồn tại hai tư cách: vừa là nhà sản xuất/cung ứng dịch vụ vừa là nhà phân phối hàng hóa dịch vụ trừ hình thức nhượng quyền thương mại, phân phối.

Với sự tham gia của các tư cách như trên TTHCCT được phân loại như sau [17, tr.51]:

  • Trong hình thức nhượng quyền thương mại phân phối: Bên nhận quyền được phép phân phối những hàng hóa, sản phẩm do bên nhượng quyền sản xuất, kinh doanh dưới bảng hiệu của bên nhượng quyền. Trong hình thức này, có thể tồn tại cả hai hình thức TTHCCT; đó là thỏa thuận theo chiều ngang giữa các nhà phân phối và thỏa thuận chiều dọc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền.
  • Trong hình thức nhượng quyền thương mại sản xuất hoặc nhượng quyền thương mại dịch vụ: Bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo đúng tiêu chuẩn, gắn tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, logo biểu tượng do bên nhượng quyền làm chủ sở hữu. Trong trường hợp này tồn tại thỏa thuận theo chiều ngang

Dựa trên đối tượng điều chỉnh của từng loại HĐNQTM tùy thuộc vào ngữ cảnh kinh tế và nội dung cụ thể của hợp đồng. Chúng thường được thể hiện dưới các dạng: (i) thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh, (ii) thỏa thuận phân phối cung ứng độc quyền, (iii) thỏa thuận mua bán cả gói, (iv) thỏa thuận giá bán lại, (v) kiểm soát số lượng đầu vào và đầu ra sản phẩm [20].

  • Thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh: bên nhượng quyền thường quyết định số lượng cửa hàng nhượng quyền trên một khu vực địa lý nhất định bằng việc phân chia khu vực kinh doanh cụ thể cho mỗi bên nhận quyền. Quy định này cấm bên nhận quyền kinh doanh ngoài phạm vi được cho phép bởi bên nhượng quyền và chỉ được khai thác một cơ sở duy nhất do bên nhượng quyền cấp. Thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh còn là việc hai bên kìm hãm không cho bên nhượng quyền khác kinh doanh trong phạm vi địa lý đó, tìm cách loại bỏ những doanh nghiệp không phải các bên trong thỏa thuận.
  • Thỏa thuận phân phối cung ứng độc quyền: Trong nhượng quyền thương mại, đặc biệt là hình thức nhượng quyền phân phối, bên nhận quyền chỉ được bán các sản phẩm gắn nhãn hiệu của bên nhượng quyền tại cửa hiệu gắn tên thương mại hoặc biểu tượng của bên nhượng quyền, do đó, bên nhận quyền phải tuyệt đối trung thành và tôn trọng lợi ích của bên nhượng quyền. Ngoài độc quyền về sản phẩm, có thể tồn tại dưới hình thức độc quyền về thiết bị buộc bên nhận quyền phải mua trang thiết bị theo bên nhượng quyền.
  • Thỏa thuận mua bán cả gói: Được hiểu là việc bên nhận quyền phải chấp nhận những nghĩa vụ không liên quan đến đối tượng của HĐNQTM. Và đây được gọi là một ràng buộc bán kèm. Theo Luật Cạnh tranh Canada, ràng buộc bán kèm được hiểu là một hành vi trong đó một nhà cung cấp hàng hóa, như một điều kiện để cung cấp hàng hóa đó (hàng hóa “ràng buộc”), yêu cầu khách hàng phải: (i) mua lại một hàng hóa khác từ nhà cung cấp hoặc người do nhà cung cấp chỉ định; hoặc (ii) hạn chế sử dụng hoặc phân phối, cùng với hàng hóa ràng buộc, một hàng hóa khác không thuộc nhãn hiệu do nhà cung cấp hoặc người được nhà cung cấp chỉ định nêu rõ, và một hành vi trong đó nhà cung cấp hàng hóa lôi kéo khách hàng đáp ứng một yêu cầu đặt ra trong (i) hoặc (ii) bằng cách đề nghị cung cấp hàng hóa đó cho khách hàng đó với những điều kiện hay điều khoản ưu đãi hơn nếu khách hàng đó đồng ý đáp ứng một trong những điều kiện trên [20]. Hay nói cách khác, khi bên bán sẽ bán một sản phẩm chính với điều kiện bên mua đồng ý mua một sản phẩm khác hoặc/và phải mua sản phẩm được bán kèm từ một doanh nghiệp khác do bên nhượng quyền chỉ định hoặc ít nhất đồng ý không mua sản phẩm được bán kèm từ một doanh nghiệp khác.
  • Thỏa thuận giá bán lại: Việc thỏa thuận áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ nhằm ấn định một mức giá trần hoặc mức giá sàn hoặc một mức giá đề nghị không mang tính chất ràng buộc hoặc bất kỳ mức giá đề nghị nào được quảng cáo bởi bên nhượng quyền.
  • Kiểm soát số lượng đầu vào, đầu ra sản phẩm: Đối với hình thức nhượng quyền thương mại sản xuất, bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sản xuất và bán các sản phẩm gắn nhãn hiệu của bên nhượng quyền, theo sự chỉ đạo của bên nhượng quyền, hoặc hai bên cùng thỏa thuận khối lượng hàng găm hàng tạo sự khan hiếm cho thị trường.

Thực tế hiện nay có thể thấy rất ít các hình thức nhượng quyền tồn tại độc lập. Các hình thức nhượng quyền này đan xen nhau. Chính vì vậy, hành vi TTHCCT phát sinh dưới cả chiều dọc và chiều ngang dưới nhiều cách thức đa dạng.

Pháp luật về nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh đều là những bộ phận của hệ thống luật thương mại, có mối quan hệ qua lại tương hỗ lẫn nhau. Hiện nay, các quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại đang được quy định rải rác trong Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, mối quan hệ giữa hai mảng luật này chủ yếu liên quan tới các quy định về TTHCCT.

Bên cạnh đó, những quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền có thể có những liên quan, còn các quy định về tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh hầu như không có mối quan hệ với pháp luật về nhượng quyền thương mại. Do đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về cạnh tranh khi thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại cũng như các vụ tranh chấp liên quan là rất cần thiết nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động nhượng quyền thương mại diễn ra trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị trường thế giới.

Bên cạnh đó, để giúp doanh nghiệp có thể tránh được các kiện tụng liên quan tới các hành vi hạn chế cạnh tranh của bên nhận quyền Việt Nam, giúp cho cả các cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực tương ứng có những hiểu biết đầy đủ, từ đó có hướng để hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại nói riêng và pháp luật thương mại nói chung, đáp ứng xu thế hội nhập.

1.3.2.  Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Qua việc tìm hiểu, các TTHCCT trong HĐNQTM có các đặc trưng pháp lý sau đây:

Thứ nhất, chủ thể của TTHCCT trong HĐNQTM là các doanh nghiệp hoạt động độc lập, cùng trên thị trường liên quan và cùng tham gia vào hoạt động nhượng quyền.

Chủ thể của TTHCCT trong HĐNQTM là các doanh nghiệp, trong đó một bên được gọi là bên nhượng quyền sở hữu thương hiệu, bí quyết kinh doanh, hệ thống phân phối sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ…, bên còn lại là bên nhận quyền phải trả một khoản phí nhất định hay số % doanh thu của mình cho bên nhượng quyền để đổi lại bên này sẽ được bên nhượng quyền cho phép sử dụng thương hiệu, hệ thống tiếp thị, mô hình kinh doanh…

Bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong các TTHCCT trong HĐNQTM phải là các doanh nghiệp cùng trên “thị trường liên quan”. Theo quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2004 thì:

Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thể cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận [13, Điều 3, khoản 1].

Các doanh nghiệp tham gia TTHCCT trong HĐNQTM phải là các doanh nghiệp hoạt động độc lập với nhau, không phải là các doanh nghiệp liên quan của nhau theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Sẽ không coi là doanh nghiệp độc lập nếu đó là các doanh nghiệp cùng trong một tập đoàn kinh doanh, là thành viên cùng trong một tổng công ty…

Thứ hai, bên nhượng quyền và bên nhận quyền đã có sự “thỏa thuận” để hạn chế cạnh tranh.

Mang đặc điểm của TTHCCT, theo đó, ở TTHCCT trong HĐNQTM, bên nhượng quyền và bên nhận quyền đã có sự bày tỏ ý chí trước bên còn lại và cũng mong muốn chủ thể phía bên kia chấp nhận ý chí của mình về các nội dung liên quan đến hạn chế cạnh tranh.

Sự thỏa thuận này là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng của bên nhượng quyền với bên nhận quyền liên quan đến một nội dung cụ thể như thỏa thuận về giá bán hàng hóa/cung ứng dịch vụ, điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh, điều khoản hạn chế số lượng đầu vào và đầu ra của sản phẩm… Như vậy, đã có sự thống nhất ý chí giữa hai bên để cùng đưa ra nội dung các thỏa thuận.

Thứ ba, mục đích của sự thỏa thuận là nhằm hạn chế cạnh tranh giữa các bên tham gia hệ thống nhượng quyền thương mại.

TTHCCT trong HĐNQTM như ở đặc điểm trên đã nêu, đó là sự thống nhất ý chí giữa các bên nhượng quyền và bên nhận, ngoài việc nhằm bảo vệ trực tiếp lợi ích của bên nhượng quyền, các thỏa thuận này đồng thời loại bỏ quyền của bên nhận quyền đồng thời ngăn cản, kìm hãm các doanh nghiệp tiềm năng khác không tham gia vào thỏa thuận.

Có thể thấy, đối với điều khoản ấn định giá bán hàng hóa/cung ứng dịch vụ, với lý do nhằm đảm bảo tính thống nhất của cả hệ thống, bên nhượng quyền đưa ra các quy định nhằm loại bỏ sự cạnh tranh về giá của các bên nhận quyền trong toàn hệ thống. Hay điều khoản quy định về việc bên nhận quyền yêu cầu bên nhượng quyền chỉ được nhượng quyền cho một bên nhận quyền duy nhất trong một phạm vi nhất định nhằm tránh nguy cơ phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mạnh hơn mình. Hoặc để duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới nhượng quyền, bên nhượng quyền không chỉ có trách nhiệm cung cấp cho bên nhận quyền bí quyết và kỹ thuật chế biến, nấu nướng, mà còn cung cấp cả nghĩa vụ mua nguyên liệu từ bên nhượng quyền hoặc bên thứ ba do bên nhượng quyền chỉ định. Việc đặt ra các tiêu chuẩn đối với hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng nhượng quyền nhìn chung là có lợi cho người tiêu dùng và có thể làm cho thị trường hoạt động một cách hiệu quả hơn. Nó giúp người tiêu dùng có nhiều thông tin, giúp họ đưa ra các quyết định chính xác hơn về sản phẩm mà họ dự định mua đồng thời tiêu chuẩn đó làm cho cung cầu thị trường cân bằng nhanh hơn và lợi ích công nghệ mới được sử dụng hiệu quả cao hơn nhưng điều đó cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể không được chỉ định bởi bên nhượng quyền.

Thứ tư, về hình thức biểu hiện của TTHCCT trong HĐNQTM.

Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc quy định hình thức của TTHCCT có thể bất kể là bằng miệng hay bằng văn bản, chính thức hay không chính thức. Luật Cạnh tranh của Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia khác không đề cập đến hình thức biểu hiện của TTHCCT, mà chỉ xác định là các thỏa thuận hạn đó nhằm hạn chế cạnh tranh. Nói cách khác, Luật Cạnh tranh của Việt Nam không nói tới TTHCCT phải thể hiện bằng văn bản, bằng miệng, bằng hành vi cụ thể hay bất cứ một hình thức nào khác. Như vậy theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hình thức biểu hiện ra bên ngoài của các TTHCCT không được coi là tiêu chí bắt buộc đối với các TTHCCT.

Điều 285 Luật Thương mại 2005 quy định HĐNQTM phải được lập thành văn bản hoặc các hình thức pháp lý có giá trị tương đương.

Như vậy, TTHCCT trong HĐNQTM được ghi nhận trong các điều khoản của HĐNQTM. Chính vì vậy, thỏa thuận này sẽ được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản. Điều này phù hợp với tình hình hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay vì đây là hoạt động khá phức tạp đối với các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ bằng hình thức văn bản mới có thể ghi thỏa thuận của các bên một cách rõ ràng, cụ thể từ đó xác định được đâu là các thỏa thuận có nội dung hạn chế cạnh tranh. Giúp nhà nước quản lý tốt hơn các thỏa thuận dạng này.

Kết luận chương 1

Nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh được rất nhiều công ty các nước áp dụng để nhân rộng mô hình kinh doanh. Lợi ích mà nhượng quyền thương mại cho nền kinh tế của các quốc gia phát triển nhượng quyền thương mại là rất lớn.

Trong chương 1 tác giả chủ yếu tìm hiểu lý thuyết cơ bản về hợp đồng nhượng quyền thương mại, về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Trên cơ sở lý thuyết đó, trong chương 2 tác giả sẽ phân tích tìm hiểu cụ thể những quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Qua đó, chỉ ra thực trạng diễn ra thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại hiện nay như nào.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ

CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Qua những phân tích tìm hiểu về lý luận hợp đồng nhượng quyền thương mại, TTHCCT nói chung và TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng, chương 2 tác giả sẽ đi sâu phân tích thực trạng TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền qua đó chỉ ra được những gì đã làm được và những điểm hạn chế cần khắc phục.

2.1. Thực tiễn thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở nước ta thời gian qua

Nhượng quyền thương mại bắt đầu manh nha ở Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ trước và phát triển khá nhanh trong khoảng thời gian gần đây (sau khi nhượng quyền thương mại chính thức được ghi nhận trong Luật Thương mại 2005).

Theo thống kê của Vụ Thị trường trong nước và Viện Nghiên cứu Thương mại, trong hơn 8 năm qua từ 15/1/2007 đến 15/7/2015, Vụ Thị trường trong nước đã cấp phép cho 137 thương nhân và 148 thương hiệu/nhãn hiệu nước ngoài vào Việt Nam. Trong đó lĩnh vực nhà hàng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất (43,7%) bao gồm 42 thương hiệu như các nhà hàng bán thức ăn nhanh, bánh, cà phê, đồ uống, nhà hàng lẩu nướng, tiếp theo là thời trang (19,3%, 19 thương hiệu), giáo dục, đào tạo (14,1%, 17 thương hiệu), cửa hàng tiện lợi (2,2%, 3 thương hiệu), cửa hàng bán lẻ khác (10,4%, 15 thương hiệu), sản xuất bán buôn các dịch vụ khác như dược phẩm, hóa chất, môi giới bất động sản, lưu kho… chiếm 10,3% [29].

Các thương hiệu đã vào Việt Nam như McDonald’s, Baskin Robbins, Haagen-Dazs (đến từ Hòa Kỳ), Pizza Hut, Kentucky Fried Chicken, Pepper Lunch, Burger King(đến từ Singapore), Lotteria, Caffe Bene, Tous Les Jours, BBQ Chicken (đến từ Hàn Quốc), Swensen’s (đến từ Malaysia), Oasis, Karren Millen, Warehouse, Topshop, Coast London(đến từ Anh), Bulgari, Moschino, Rossi(từ Italy)…. Trong khi đó một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tích cực triển khai phát triển thương hiệu ở nước ngoài như Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô Bakery, Ninomax, giày dép T&T…[29].

Dưới sự phát triển nhanh mạnh của hoạt động nhượng quyền, các thỏa thuận để hạn chế cạnh tranh cũng có xu hướng phát triển đa dạng, phức tạp hơn. Thực tế, việc kiểm soát hành vi TTHCCT nói chung và hoạt động nhượng quyền thương mại nói riêng ở Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm. Giống như hoạt động nhượng quyền thương mại vào Việt Nam, các TTHCCT đang diễn ra dưới nhiều phương thức khác nhau. Các TTHCCT dưới dạng thỏa thuận điều khoản trong hợp đồng về phạm vi lãnh thổ, về giá cả, ấn định giá hai bên với nhau, về hoạt động mua bán cả gói…. Cụ thể như sau:

  • Thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh

Quy định về việc phân chia thị trường và hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hợp đồng NQTM là một trong những đặc trưng của hoạt động NQTM nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Do đó, bằng sự thỏa thuận mỗi bên nhận quyền chỉ kinh doanh một cơ sở duy nhất trong một phạm vi nhất định, đã tạo ra vị thế độc quyền trong khu vực cho mỗi bên nhận quyền. Thỏa thuận dọc này có thể hạn chế quyền tự do kinh doanh, khả năng phát triển của bên nhận quyền, và sẽ tạo ra sự hạn chế (theo chiều ngang) đối với các doanh nghiệp khác kinh doanh cùng lĩnh vực ngành nghề gia nhập thị trường ở những khu vực đã được bên nhượng quyền phân chia cho các bên nhận quyền. Đồng thời, làm hạn chế khả năng lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm hàng hóa, cung ứng dịch vụ của người tiêu dùng trong một khu vực địa lý nhất định. Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận phân chia khu vực địa lý để kinh doanh đều vi phạm cạnh tranh, để xác định hành vi này có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không còn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể [20].

  • Thỏa thuận phân phối cung ứng độc quyền

Trong hoạt động kinh doanh, bên nhận quyền không được phép thực hiện các hành vi nhằm cố ý mang lại lợi ích cho bên thứ ba hoặc đối thủ cạnh tranh của bên nhận quyền, và phải có nghĩa vụ: chỉ được bán hàng hóa do bên nhượng quyền cung cấp hoặc bên thứ ba do bên nhượng quyền chỉ định; hạn chế kinh doanh một loại hàng hóa được chỉ rõ trừ khi hàng hóa đó được bên nhượng quyền cung cấp hoặc bên thứ ba do bên nhượng quyền cho phép; cấm bên nhận quyền bán hàng hóa không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền [12, tr.57]. Các thỏa thuận phân phối và cung ứng độc quyền thường gây ra những vấn đề nhất định đối với chính sách cạnh tranh, bởi chúng thường xuyên ảnh hưởng đến cạnh tranh giữa các nhãn hàng (theo chiều ngang). Trong cạnh tranh giữa các nhãn hiệu, những thỏa thuận này ngăn cản nhà cung cấp chỉ định nhà phân phối khác trong khu vực địa lý đó, hay nói cách khác, chỉ được bán hàng trực tiếp trong khu vực địa lý dành riêng đó.

  • Thỏa thuận mua bán cả gói: Thỏa thuận này thường được áp dụng trong hình thức nhượng quyền thương mại dịch vụ về lĩnh vực ăn uống, nhà hàng, khách sạn. Bên nhận quyền khai thác dịch vụ có thể bị áp đặt các thỏa thuận độc quyền trong việc cung ứng những thiết bị, hàng hóa đi kèm.
  • Thỏa thuận giá bán lại: bên nhận quyền có nghĩa vụ không bán hàng hóa dưới mức giá bán lẻ tối thiểu, là mức giá sàn được thỏa thuận để giá không thể xuống thấp hơn, hay mức giá bán lại tối đa, là mức giá trần được thỏa thuận để giá bán không được cao hơn hoặc chỉ bán hàng hóa theo mức giá đã ấn định [11].

Những thỏa thuận nhằm duy trì giá bán lại có thể dẫn đến những hệ quả phản cạnh tranh, nếu duy trì mức giá bán lại tối đa có thể có lợi cho công chúng và thường được miễn trừ trong luật cạnh tranh của các nước, nhưng thỏa thuận đó trên thực tế có thể khiến các công ty nhỏ, không có lợi thế về kinh tế bị loại khỏi thị trường, bởi họ muốn đưa ra mức giá cao hơn mức giá trần đã được qui định để tránh lỗ. Đối với hệ thống nhượng quyền thương mại, việc duy trì giá bán lại ở mức tối đa sẽ dẫn tới hình thành mức giá phổ biến trên thị trường và như vậy sẽ loại bỏ cạnh tranh về giá. Mặt khác, nếu duy trì giá bán lại tối thiểu sẽ dẫn đến hạn chế mức độ cạnh tranh giữa các bên nhận quyền về giá, thỏa thuận này làm thui chột sự sáng tạo linh hoạt (hạn chế sự cạnh tranh) trong hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền và làm gia tăng khả năng thông đồng về giá.

  • Kiểm soát số lượng đầu vào, đầu ra sản phẩm

Bên nhận quyền là các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất đầu ra bị cấm không được mua bán với các doanh nghiệp hay những nhà phân phối cạnh tranh với doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất đầu vào, ví dụ sản xuất thuốc, nước ngọt…. Để thu lợi nhuận tối đa, thực hiện chiến lược kinh doanh, bên nhượng quyền thường đưa ra những điều khoản trong hợp đồng để kiểm soát, hạn chế số lượng hàng hóa phân phối ra thị trường nhằm đạt những lợi ích nhất định, như tạo sự khan hiếm giả, nâng giá nhằm thao túng thị trường.

Các cơ quan chức năng khi xác định các vụ việc về TTHCCT trong HĐNQTM là rất khó khăn. Cụ thể sẽ phân tích tại các phần sau. Khi kết luận một hành vi là TTHCCT xem xét trong mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh 2004, các văn bản hướng dẫn và luật chuyên ngành thương mại và nghị định hướng dẫn riêng về hoạt động nhượng quyền thương mại. Vậy để kiểm soát TTHCCT trong HĐNQTM diễn ra, pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã có cơ chế kiểm soát như thế nào?

2.2. Pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Các TTHCCT trong HĐNQTM được điều chỉnh bằng Luật Cạnh tranh năm 2004, Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh. Các vấn đề về HĐNQTM được điều chỉnh bằng Luật Thương mại, Nghị định 35/2006NĐ-CP quy định chi tiết về hoạt động nhượng quyền thương mại.

Các dạng TTHCCT trong HĐNQTM được điều chỉnh cụ thể như sau:

  • Thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh

Thỏa thuận phân chia khu vực được hiểu là những thỏa thuận trong đó các đối thủ cạnh tranh phân chia các thị trường với nhau theo lãnh thổ, theo lượng cung, cầu của doanh nghiệp hoặc theo nhóm khách hàng cụ thể.

Thứ nhất, thỏa thuận phân chia thị trường theo lãnh thổ là việc các doanh nghiệp phân chia thị trường địa lý liên quan thành các khu vực và giao cho từng doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán hàng hóa dịch vụ trong một, một số khu vực nhất định. Thỏa thuận này được pháp luật của các nước coi là loại thỏa thuận kinh điển nhất trong những thỏa thuận phân chia thị trường.

Thứ hai, thỏa thuận phân chia thị trường mang tính định lượng là việc các doanh nghiệp thống nhất phân bổ lượng hàng hóa, dịch vụ mua, bán trên thị trường cho từng doanh nghiệp tham gia. Trong trường hợp này, thị trường được phân chia theo lượng cung, lượng cầu mà không phải theo khu vực địa lý hoặc theo nhóm khách hàng. Để thực hiện được thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải dự liệu được tổng lượng hàng hóa, dịch vụ được mua, bán trên thị trường liên quan và phân chia thành những phần khối lượng, số lượng mà từng doanh nghiệp được quyền mua, bán.

Thứ ba, thỏa thuận phân chia thị trường theo nhóm khách hàng là việc các doanh nghiệp thống nhất cho từng doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán hàng hóa với một số nhóm khách hàng nhất định. Với thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải phân chia khách hàng thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định. Các tiêu chí phân nhóm khách hàng rất đa dạng, có thể phân chia theo thu nhập, theo độ tuổi, theo giới tính, theo đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng…. Từ đó, mỗi doanh nghiệp tham gia được phân công phụ trách mua hoặc bán sản phẩm với một nhóm khách hàng

Trong HĐNQTM, thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh gồm có: (i) phân chia lãnh thổ nhượng quyền (phân chia thị trường tiêu thụ)theo khoản 2 điều 8 Luật Cạnh tranh 2004, điều 15 nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, (ii) Thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh theo khách hàng thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác (bên nhượng quyền và bên nhận quyền khác) tham gia thị trường, phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên thỏa thuận theo quy định tại Điều 8 khoản 6, Điều 8 khoản 7 Luật Cạnh tranh 2004 và Điều 19, 20 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.

+ Phân chia lãnh thổ nhượng quyền: là việc xác định bên nhận quyền chỉ được khai thác kinh doanh trên một phạm vi nhất định đồng thời bên nhượng quyền cam kết không kinh doanh hoặc nhượng quyền thương mại cho một bên nào khác trong phạm vi khu vực địa lý đó. Việc này sẽ tạo ra được vị thế độc quyền cho bên nhận quyền về sản phẩm do bên nhượng quyền cung cấp trong khu vực địa lý nhất định. Như vậy gia tăng năng lực cạnh tranh cho bên nhận quyền ở mức độ cao. Hành vi này loại bỏ được cạnh tranh giữa bên nhận quyền và bên nhượng quyền, giữa các bên nhận quyền với nhau trong khu vực địa lý, đảm bảo cho bên nhận quyền một thị trường không có sự cạnh tranh với các bên nhận quyền và hệ thống nhượng quyền, từ đó gia tăng lợi nhuận một cách tối đa cho bên nhận quyền.

Tuy nhiên, thỏa thuận phân chia khu vực không mặc nhiên bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh. Nó chỉ bị cấm khi “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên” [13, Điều 9]. Trên thực tế, các doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức NQTM thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên rất khó chiếm từ 30% trở lên thị trường liên quan, và như vậy không chịu sự điều chỉnh của quy định này.

Hơn nữa, ngay cả khi thị trường kết hợp của các bên trong hợp HĐNQTM đạt trên 30%, thì thỏa thuận độc quyền lãnh thổ vẫn có thể được miễn trừ theo các quy định của khoản 1, điều 10 Luật Cạnh tranh 2004. Trên thực tế, bên nhượng quyền sẽ dễ dàng chứng minh rằng thỏa thuận độc quyền lãnh thổ trong hợp đồng NQTM là nhằm “hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh”, hoặc “thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm”.

Vấn đề đặt ra chính là yếu tố tỷ lệ thị phần được các nhà làm luật mặc nhiên thừa nhận trên 30% có khả năng gây ra hạn chế cạnh tranh trên thị trường có hợp lý hay không?

+ TTHCCT về khu vực kinh doanh, về khách hàng trong HĐNQTM, trong một chừng mực nhất định là các thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác (bên nhượng quyền và bên nhận quyền khác) tham gia thị trường, phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên thỏa thuận. Các thỏa thuận này mặc nhiên bị cấm theo khoản 1 điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 bao gồm: Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ [13, Điều 8, khoản 6, 7, 8].

Điều khoản phân chia khu vực kinh doanh thể hiện dưới một số dạng: (i) cấm bên nhận quyền bán hàng ngoài phạm vi của mình, (ii) cấm bên nhận quyền mở cửa hiệu thứ hai trong thời hạn hợp đồng hoặc sau khi hết hạn hợp đồng, (iii) quy định cấm bên nhận quyền mở một cửa hiệu có đặc điểm giống hệt hoặc tương tự trong một khu vực mà anh ta có thể cạnh tranh với một thành viên của mạng lưới nhượng quyền thương mại trong thời hạn hợp đồng còn giá trị và trong một thời gian hợp lý sau khi hết hạn hợp đồng, (iv) quy định theo đó bên nhận quyền có nghĩa vụ không chuyển giao của mình cho bên khác, nếu không có sự chấp thuận từ trước của bên nhượng quyền. Quy định này nhằm ngăn cản các đối thủ cạnh tranh hưởng lợi một cách gián tiếp từ việc cung cấp bí quyết và sự hỗ trợ của bên nhượng quyền, (v)bên nhận quyền chỉ được khai thác hệ thống nhượng quyền thương mại tại một cơ sở duy nhất, (vi) bên nhận quyền có nghĩa vụ không cạnh tranh với bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác trong mạng lưới nhượng quyền, không dịch chuyển hàng hóa được cung cấp từ điểm bán hàng này sang điểm bán hàng khác, (vii) hợp đồng có thể quy định theo đó quyền thương mại, mà bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền, là độc quyền trong một phạm vi bán kính nào đó từ ranh giới của các điểm bán hàng [6].

Điều khoản về phân chia khách hàng được thể hiện: (i) HĐNQTM có thể quy định về nghĩa vụ cơ bản của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền theo đó đảm bảo việc không giành khách hàng với bên nhận quyền, (ii) cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi của mình, (iii) bên nhận quyền có nghĩa vụ chỉ bán hàng cho người sử dụng cuối cùng hoặc các bên nhận quyền khác, (iv) cấm bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền [6].

Vấn đề thỏa thuận như cấm bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền thì có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không?

Về tổng thể điều khoản này thể hiện rất rõ tính hạn chế cạnh tranh, qua đó đảm bảo sự thành công cao của các bên trong hệ thống nhượng quyền do đó các bên rất quan tâm đến vấn đề này. Thực tế cũng có rất nhiều vụ TTHCCT diễn ra.

  • Thỏa thuận phân phối cung ứng độc quyền

Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh năm 2004 có những quy định: Thỏa thuận cung cấp sản phẩm thuộc nhóm các thỏa thuận “phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ” tại Khoản 2, Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004 và “hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ” tại Khoản 3 Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004. Các thỏa thuận này sẽ bị cấm nếu các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên theo quy định khoản 2 điều 9 Luật Cạnh tranh 2004. Tuy nhiên, ngay cả khi thị phần kết hợp trên thị trường liên quan đạt trên 30% thì các thỏa thuận này vẫn có thể được hưởng miễn trừ theo quy định tại Điều 10, nếu với mục đích nhằm hạ giá thành có lợi cho người tiêu dùng, chúng “hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh”, hoặc “thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ” [13, Điều 10, Khoản 1, Điểm a,b]. Miễn trừ cũng được áp dụng nếu điều khoản độc quyền nhằm “thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm”, hoặc “tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa” [13, Điều 10, Khoản 1, Điểm c, d].

Phân tích theo hợp đồng thương mại, điều khoản độc quyền cung cấp có thể mang lại lợi ích cho cả bên nhận quyền lẫn bên nhượng quyền. Bên nhận quyền được đảm bảo rằng sẽ được cung cấp sản phẩm một cách thường xuyên, ổn định để phục vụ khách hàng. Còn bên nhượng quyền thì có thể bán cho tất cả các bên nhận quyền trong hệ thống các sản phẩm do mình hoặc do đối tác của mình sản xuất ra.

Điều khoản độc quyền cung cấp mang lại nhiều lợi ích hơn cho bên nhượng quyền, và gây nhiều bất lợi cho bên nhận quyền, cũng như có thể bóp méo tự do cạnh tranh. Trên thực tế, bên nhận quyền phải chịu hai bất lợi lớn. Thứ nhất, bên nhận quyền không được phép mua các sản phẩm tương tự của các nhà cung cấp khác. Thứ hai, bên nhận quyền rất khó đàm phán giá mua các sản phẩm này với bên nhượng quyền, và trong một số trường hợp, còn phải bán lại sản phẩm theo các mức giá mà bên nhượng quyền ấn định, hoặc khuyến nghị, trong khi mình là một thương nhân độc lập. Ngoài ra, điều khoản độc quyền cung cấp sản phẩm còn có thể có ảnh hưởng đến tự do cạnh tranh trên thị trường nói chung.Phân phối cung ứng độc quyền được chia ra (i) độc quyền cung cấp trang thiết bị, (ii) độc quyền cung cấp sản phẩm [7].

  •  Độc quyền cung cấp trang thiết bị

Ở Việt Nam, việc bên nhượng quyền áp đặt cho bên nhận quyền phải mua hoặc thuê các thiết bị của mình hoặc của người thứ ba do mình chỉ định không mặc nhiên bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm. Thông tư số 09 ngày 25/5/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại quy định rằng, bên nhượng quyền phải nêu rõ trong bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại những trang thiết bị mà bên nhận quyền phải thuê hoặc mua. Điều này có nghĩa là bên nhượng quyền được phép yêu cầu bên nhận quyền mua các thiết bị của mình hoặc của nhà cung cấp do mình chỉ định. Trong trường hợp như vậy, bên nhượng quyền phải ghi rõ vào trong bản giới thiệu về hệ thống nhượng quyền thương mại.

  •  Độc quyền cung cấp sản phẩm

Trong hầu như tất cả các HĐNQTM ở Việt Nam đều có điều khoản độc quyền cung cấp sản phẩm, dịch vụ, theo đó bên nhượng quyền buộc bên nhận quyền phải mua sản phẩm của mình hoặc của nhà cung cấp do mình chỉ định. Điều khoản độc quyền có thể được tăng cường khi bên nhượng quyền áp đặt cho bên nhận quyền phải đạt được một doanh thu tối thiểu. Trong trường hợp đó, bên nhận quyền không những chỉ được mua sản phẩm của bên nhượng quyền, mà còn phải thực hiện chỉ tiêu mà bên nhượng quyền áp đặt, nếu không sẽ có nguy cơ bị chấm dứt hợp đồng.

Trong thực tế, để tránh các quy định của pháp luật cạnh tranh, bên nhượng quyền thường không đặt tên cho các điều khoản của mình là “độc quyền cung cấp”, mà thường sử dụng nhiều những tên gọi khác nhau như “điều khoản quota”, “điều khoản khối lượng mua tối thiểu”, hoặc “điều khoản chỉ tiêu”. Thông qua các điều khoản này, bên nhượng quyền áp đặt cho bên nhận quyền phải mua một lượng hàng nhất định của mình hoặc của nhà cung cấp do mình chỉ định. Các điều khoản này thường đi kèm với các điều khoản độc quyền, nhưng chúng cũng có thể tồn tại mà không có các điều khoản độc quyền. Bên nhận quyền tự do mua và bán lại các sản phẩm cạnh tranh. Tuy nhiên, sự tự do này trên thực tế chỉ là hình thức. Số lượng hàng hóa bị áp đặt càng nhiều thì tự do của bên nhận quyền càng ít.

  • Thỏa thuận mua bán cả gói

Trong HĐNQTM, các bên bao giờ cũng quy định chi tiết những sản phẩm/dịch vụ là đối tượng chính hoặc góp phần cấu thành sản phẩm/dịch vụ chính của hệ thống nhượng quyền thương mại. Bởi thực tế là những thương hiệu thành công và có thể được nhượng quyền bao giờ cũng sở hữu bí quyết kinh doanh riêng có, sản phẩm/dịch vụ đặc trưng được khách hàng tín nhiệm. Do vậy, bên nhượng quyền bao giờ cũng có xu hướng bảo vệ những bí quyết và sản phẩm/dịch vụ đặc trưng đó bằng cách yêu cầu bên nhận quyền mua nguyên liệu, sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ của bên nhượng quyền hoặc nhà cung cấp do bên nhượng quyền chỉ định.

Đây là một dạng theo quy định tại khoản 5 Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004 “áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” và hướng dẫn khoản 2 Điều 18 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.

Căn cứ vào tính chất thống nhất trong bản chất kinh tế của hoạt động nhượng quyền thương mại, hầu hết pháp luật các quốc gia đều cho phép các bên có quyền từ chối giao dịch thương mại với các bên thứ ba nếu như việc thực hiện giao dịch này có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống nhượng quyền thương mại. Vậy vấn đề mà pháp luật cạnh tranh cần giải quyết là sản phẩm/dịch vụ nào mang tính chất “ràng buộc bán kèm”. Sản phẩm, dịch vụ nào liên quan trực tiếp đến sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi trong HĐNQTM?

Theo khoản 2 Điều 18 Nghị định 116/2004/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Cạnh tranh, có quy định như sau:

Thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là việc thống nhất ràng buộc doanh nghiệp khác khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ với bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia thỏa thuận phải mua hàng hóa, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng.

Phân tích quy định này ta thấy rằng các nhà làm luật đã nêu rõ thỏa thuận được coi là thỏa mãn quy định khoản 2 Điều 18 khi “nguyên liệu và các sản phẩm khác… nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng”. Như vậy là quy định pháp luật chấp nhận những thỏa thuận mà nội dung liên quan đến việc bên nhận quyền có nghĩa vụ mua nguyên liệu và sản phẩm là đối tượng chính của HĐNQTM. Xét điều khoản bên nhận phải mua một số nguyên liệu hoặc các sản phẩm khác của bên nhượng quyền hoặc từ những nhà cung cấp do bên nhượng quyền chỉ định. Có thể thấy rằng với điều khoản này, bên nhận quyền sẽ phải tiêu dùng những sản phẩm nhất định của bên nhượng quyền hoặc mua từ nhà sản xuất/nhà cung ứng do bên nhượng quyền chỉ định trước. Do đó, bên nhận quyền không có cơ hội tìm kiếm nguồn nguyên liệu/sản phẩm có chất lượng tốt và phù hợp với yếu tố địa phương của chính mình. Đặc biệt nếu các nguyên liệu và sản phẩm mà bên nhận quyền buộc phải mua không phải hoặc không trực tiếp tạo ra sản phẩm chính (sản phẩm đặc trưng của hệ thống nhượng quyền) thì việc bên nhượng quyền áp đặt ý chí của mình đối với bên nhận quyền là không có cơ sở và đang tạo ra rào cản đối với doanh nghiệp khác mặc dù thỏa thuận đó được núp dưới vỏ bọc mục đích đảm bảo cho sự đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. Nhất là trên thực tế, thị trường phát triển luôn tồn tại những nhà cung cấp dịch vụ, sản xuất hàng hóa có chất lượng tương đương hoặc tốt hơn, giá cả cạnh tranh và nhất là phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng địa phương nằm ngoài thỏa thuận của các bên.

Tuy nhiên thỏa thuận này chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên trong thỏa thuận từ 30% trở lên trên thị trường liên quan và có thể được miễn trừ với lý do hợp lý hóa mô hình kinh doanh theo điểm a khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh năm 2004.

Điều này là cực kỳ vô lý xét trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại khi Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết về hoạt động nhượng quyền thương mại cho phép bên nhượng quyền có quyền từ chối chuyển giao quyền thương mại nếu bên dự kiến nhận quyền chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn lựa chọn của bên nhượng quyền; hay không đồng ý sẽ tuân thủ các nghĩa vụ của bên nhận quyền theo HĐNQTM mẫu [13, Điều 15, khoản 3]. Như vậy, khi bên nhượng quyền có thị phần lớn, có khả năng chi phối bên nhận quyền, bên nhượng quyền có thể áp đặt những ràng buộc bán kèm, dù bất hợp lý. Và các ràng buộc bán kèm bất hợp lý đó vẫn có thể không vi phạm chế định TTHCCT trong Luật Cạnh tranh năm 2004 vì bên nhượng quyền có thể sử dụng điểm a, c khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh năm 2004 để bảo vệ cho những thỏa thuận mang tính hạn chế cạnh tranh đó.

Ngoài ra, khi bên nhượng quyền có thị phần trên thị trường liên quan từ 30% trở lên thì nó được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2004, khoản 2 Điều 18 Nghị định 116/2005/NĐ-CP và bị cấm nếu sản phẩm được bán kèm “không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” hay “nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện HĐNQTM”. Bởi trong nền kinh tế hiện đại, thứ mà nhà sản xuất/phân phối/cung ứng bán cho khách hàng là một “gói dịch vụ” bao gồm nhiều yếu tố tổng hợp như dấu hiệu nhận biết thương mại, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, phương thức phục vụ, dịch vụ hậu mãi… chứ không chỉ đơn thuần là một loại hàng hóa hữu hình. Do đó, giả sử thương hiệu KFC giao kết HĐNQTM với bên nhận quyền Việt Nam, trong đó yêu cầu bên nhận quyền phải nhập thịt gà và nguyên liệu từ những nhà cung cấp do KFC chỉ định hoặc đồng ý trước thì liệu đây có được coi là thỏa thuận “ràng buộc bán kèm” không liên quan đến “gói dịch vụ cửa hàng KFC” hay không? Khi mà các yếu tố như hình thức, chất lượng của thịt gà, gia vị đều cấu thành nên một phần hình ảnh, khẩu vị chất lượng đặc trưng của thương hiệu KFC.

  • Thỏa thuận giá bán lại

Hành vi ấn định giá bán lại được quy định tại Khoản 1 Điều 8 (liên quan đến TTHCCT) và khoản 2 Điều 13 (liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường) của Luật Cạnh tranh năm 2004. Theo Điều 8 khoản 1 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì “thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là TTHCCT, nhưng Điều 9 khoản 2 chỉ cấm thỏa thuận đó nếu thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.

Bên nhận quyền mua sản phẩm với mục đích là để bán lại chứ không phải để tiêu dùng. Là một thương nhân độc lập, về nguyên tắc bên nhận quyền phải được tự do ấn định giá bán lại các sản phẩm mà mình đã mua của bên nhượng quyền. Tuy nhiên, quan điểm của bên nhượng quyền lại có thể khác. Mục đích của điều khoản độc quyền sản phẩm không phải chỉ là để bên nhận quyền bán lại sản phẩm, mà là để đảm bảo sự đồng nhất của hệ thống. Do nhượng quyền thương mại có điểm đặc biệt là các đơn vị nhận quyền cung cấp sản phẩm đồng nhất tại tất cả các cửa hàng được trang trí giống nhau, với cách phục vụ như nhau nên người tiêu dùng sẽ rất ngạc nhiên nếu với cùng một sản phẩm nhưng giá ở các cửa hàng đồng nhất lại khác nhau. Vì vậy, bên nhượng quyền không thể thờ ơ với chính sách giá mà các bên nhận quyền áp dụng, đặc biệt khi thương hiệu nhượng quyền có uy tín cao và được đông đảo mọi người biết đến. Trên thực tế, bên nhượng quyền thường có xu hướng đồng nhất các giá bán lại để tránh trường hợp mỗi bên nhận quyền áp dụng một chính sách giá riêng lẻ, và như vậy gây khó khăn cho người tiêu dùng. Nếu các mức giá mà các bên nhận quyền đưa ra quá cao, thì hiệu quả thương mại có thể sẽ thấp, hàng sẽ bán được ít và phí kỳ vụ mà bên nhận quyền (thường dựa trên doanh thu, chứ không trên lợi nhuận) thu được cũng sẽ thấp. Tuy nhiên, nếu giá bán lại quá thấp thì uy tín của thương hiệu có nguy cơ bị ảnh hưởng. Vì thế bên nhượng quyền có xu hướng thực hiện chính sách giá đồng nhất (hoặc chênh lệch không quá lớn) trong toàn hệ thống. Nội dung của chính sách giá này có thể là khuyến nghị hoặc áp đặt giá bán lại tối thiểu, giá bán lại tối đa hoặc quy định một khoảng giá mà bên nhận quyền phải tuân theo. Các thỏa thuận này về bản chất đi ngược lại với tự do cạnh tranh, ảnh hưởng tới các bên nhận quyền, và có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Pháp luật Việt Nam lại tỏ ra còn chung chung và thiếu hiệu quả trong thực tế.

Phân tích Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam về hai cơ chế phòng ngừa và trừng phạt các hành vi áp đặt giá bán lại. Cơ chế thứ nhất là kiểm soát các TTHCCT, và cơ chế thứ hai là kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường [7]. Nhưng cả hai cách này dường như không hiệu quả trong lĩnh vực NQTM.

  •  Kiểm soát thỏa thuận giá bán lại thông qua quy định về các TTHCCT

Khoản 1, điều 8 Luật Cạnh tranh coi “thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là một hành vi hạn chế cạnh tranh. Thỏa thuận giá bán lại dưới hai dạng trực tiếp và gián tiếp được hiểu như sau:

Thỏa thuận giá bán trực tiếp: hai bên nhượng quyền và nhận quyền trực tiếp thỏa thuận với nhau. Cả hai bên thể hiện ý chí với nhau về việc ấn định giá hàng hóa và được ghi nhớ thỏa thuận dưới nhiều dạng, có thể là một điều khoản, một cam kết.

Thỏa thuận giá bán gián tiếp: Hai bên cùng xác định một mức giá cụ thể, cùng giảm, cùng tăng hoặc cách nào đó để thống nhất về giá. Hành động này khác trực tiếp là hai bên tuy không trao đổi, thỏa thuận trực tiếp nhưng những hành vi luôn hướng tới sự cân bằng về giá.

Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận ấn định giá đều bị cấm. Việc áp đặt giá bán lại chỉ bị coi là bất hợp pháp khi “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên” theo khoản 2 điều 9 Luật Cạnh tranh. Các doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên rất khó chiếm 30% thị phần. Hơn nữa, khoản 6, điều 3 của luật này quy định rằng “thị phần” của một doanh nghiệp phải được xác định dựa trên “tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm”. Như vậy, không thể xác định được thị phần kết hợp trong nhượng quyền thương mại sản xuất vì bên nhượng quyền và bên nhận quyền không nằm trong cùng một chuỗi sản xuất. Trên thực tế, bên nhượng quyền là nhà sản xuất còn bên nhận quyền là nhà phân phối. Và như vậy, thỏa thuận của họ là thỏa thuận theo chiều dọc, trong khi cơ chế này chỉ cấm các thỏa thuận theo chiều ngang.

Việc xác định hành vi thỏa thuận trực tiếp, gián tiếp cũng là rất khó. Theo hướng dẫn tổ chức hỗ trợ thương mại đa biên Việt Nam – EU hướng dẫn “các hành vi giữa các doanh nghiệp giống nhau chưa đủ để chứng minh họ có thỏa thuận với nhau”. Vì vậy việc thực tế thực hiện điều luật xác định về thỏa thuận thực tế là rất khó khăn với cơ quan.

  •  Kiểm soát thỏa thuận giá bán lại thông qua quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Khoản 2, điều 13 Luật Cạnh tranh cấm các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp chiếm một vị trí thống lĩnh “áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng”. Quy định này chỉ được áp dụng nếu hành vi ấn định giá bán lại của bên nhượng quyền gây ra các thiệt hại cho người tiêu dùng. Điều này có thể xảy ra đối với việc áp đặt giá bán lại tối đa. Tuy nhiên, việc chứng minh hành vi đó “gây thiệt hại cho khách hàng” không hề đơn giản. Ngược lại, đối với hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu, ngay cả khi giá áp đặt quá thấp, thì hành vi này cũng không bị cấm, vì giá thấp có lợi cho người tiêu dùng.

  • Kiểm soát số lượng đầu vào, đầu ra của sản phẩm

Thỏa thuận kiểm soát số lượng đầu vào, đầu ra của sản phẩm là một dạng của TTHCCT, được quy định tại Khoản 3 Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004 và hướng dẫn tại Điều 16 Nghị định 116/2005/NĐ-CP:

Thoả thuận hạn chế số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó.

Thoả thuận kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc thống nhất ấn định số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường.

Đây là dạng TTHCCT được sử dụng khá phổ biến trong HĐNQTM.

Thỏa thuận này bị cấm khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Thỏa thuận này có thể bao gồm các thỏa thuận về sản lượng sản xuất, sản lượng bán hoặc tỷ lệ tăng trưởng thị trường. Về bản chất, bên nhượng quyền sử dụng thỏa thuận này trong HĐNQTM nhằm tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu của thị trường bằng cách tạo ra sự khan hiếm giả tạo về hàng hóa, dịch vụ mà các doanh nghiệp kinh doanh. Sự khan hiếm giả tạo được chứng minh bằng năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, theo đó họ đã thống nhất cắt giảm số lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ hoặc ấn định số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá đủ để tạo khan hiếm trên thị trường trong khi năng lực sản xuất, mua bán hoặc cung ứng của họ đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp được xác định bằng số lượng, khối lượng hàng hoá, dịch vụ đã sản xuất mua bán hoặc cung ứng trước khi có thỏa thuận.

Mục đích của việc này là bên nhượng quyền muốn tạo ra sự khan hiếm về hàng hóa, nâng giá, thao túng thị trường.

2.3. Ưu điểm và hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Sau khi phân tích cụ thể hiện trạng trên có thể đánh giá tổng quát về những quy định pháp luật điều chỉnh TTHCCT trong HĐNQTM như sau:

2.3.1. Ưu điểm

Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật điều chỉnh hành vi TTHCCT là văn bản quan trọng đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của một nền kinh tế thị trường. Đến nay, sau hơn chục năm kể từ 1/7/2005 (thời điểm Luật có hiệu lực), có thể nói rằng việc ban hành và thực thi pháp luật cạnh tranh nói chung và TTHCCT trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam nói riêng cũng đã đạt được một số kết quả ban đầu.

  • Đã ban hành được cơ chế quy định điều chỉnh

Thành công bước đầu của Việt Nam trong kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh nói chung và hành vi TTHCCT nói riêng trước hết là đã xây dựng và ban hành được một bộ quy định điều chỉnh tương đối đầy đủ, bao gồm Luật Cạnh tranh và các Nghị định hướng dẫn thi hành, tạo được cơ sở pháp lý cho hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như việc quản lý nhà nước về cạnh tranh của cơ quan cạnh tranh.

Mặc dù pháp luật cạnh tranh ở một số quốc gia tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU đã có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, tuy nhiên, đối với một số nước châu Á nó vẫn còn là một lĩnh vực tương đối mới. Việc Việt Nam lần đầu tiên ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004 là một bước tiến bộ so với các nước trong khu vực ASEAN. Việt Nam là nước thứ tư trong khu vực ASEAN đã thông qua và áp dụng một Bộ luật Cạnh tranh toàn diện, chỉ sau Thái Lan (ban hành năm 1999), Indonesia (năm 1999) và Singapore (tháng 10 năm 2004).

Hành vi TTHCCT nói chung và trong HĐNQTM nói riêng tại Việt Nam hiện nay đều đang được điều chỉnh bởi:

(1) Luật Cạnh tranh năm 2004;

(2) Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh và

(3) Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Nếu như Luật Cạnh tranh đưa ra các quy định khái quát về mặt nguyên tắc liên quan đến hành vi TTHCCT, bao gồm:

  •  Quy định về hành vi (Điều 8, Luật Cạnh tranh);
  •  Quy định cấm (Điều 9, Luật Cạnh tranh);
  •  Quy định miễn trừ (Điều 10, Luật Cạnh tranh);
  •  Quy định về xử lý vi phạm (Điều 117 – 121, Luật Cạnh tranh);
  •  Quy định về trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc (Chương V, Luật Cạnh tranh), thì các Nghị định hướng dẫn thi hành quy định chi tiết hơn giúp các cơ quan chức năng có căn cứ rõ ràng hơn khi xem xét các vụ việc liên quan đến hành vi TTHCCT. Cụ thể, Nghị định 116/2005/NĐ-CP giải thích rõ hơn các quy định cấm, miễn trừ, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý đối với vụ việc TTHCCT, trong khi Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về hình thức và mức độ xử lý đối với hành vi vi phạm quy định về TTHCCT (Điều 10-17). Tất cả áp dụng chung với tất cả các hành vi TTHCCT.
  • Đã xây dựng và từng bước hoàn thiện bộ máy cơ quan thực thi

Song song với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi TTHCCT, bộ máy thực thi tại Việt Nam cũng đã được xây dựng, hình thành với hai cơ quan chức năng, bao gồm Hội đồng cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh.

Cơ sở pháp lý cho hoạt động của Hội đồng cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh là Nghị định 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh và Nghị định 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Theo đó, liên quan đến các vụ việc TTHCCT, Cục Quản lý cạnh tranh có chức năng thụ lý và tổ chức điều tra, trong khi đó Hội đồng cạnh tranh có chức năng xử lý vụ việc. Với mô hình cơ quan thực thi như hiện tại, việc điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT độc lập với nhau.

Việc xây dựng các nghị định nêu trên bước đầu đã tạo tiền đề, cơ sở giúp cơ quan thực thi điều tra và xử lý được một số vụ việc TTHCCT. Tuy nhiên, cũng chính trong quá trình vận hành bộ máy thực thi đã bộc lộ những khó khăn, bất cập về mô hình cần khắc phục. Do đó, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực thi cạnh tranh vẫn đang từng bước được hoàn thiện.

Một số quy định đã được thực thi, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh/văn hóa cạnh tranh

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, các cơ quan cạnh tranh Việt Nam thông qua quá trình thực thi đã thực sự đưa Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống. Kết quả kiểm soát hành vi TTHCCT thể hiện rõ nhất thông qua việc một số quy định đã được thực thi nhằm góp phần cải thiện môi trường kinh doanh cũng như văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này là rất quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các thương hiệu nhượng quyền nước ngoài vào Việt Nam phát triển.

Trong số các quy định về TTHCCT, quy định về hành vi “thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” tại khoản 1, Điều 8, Luật Cạnh tranh và Điều 14, Nghị định 116/2005/NĐ-CP, đồng thời quy định cấm tại khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh, cũng như các quy định về xử lý vi phạm, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc thỏa thuận ấn định giá tương ứng được thực thi khá hiệu quả. Việc thực thi một số quy định về TTHCCT đã có những tác động tích cực đối với môi trường cạnh tranh trên các thị trường liên quan, đồng thời, nhận thức của doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh cũng được nâng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, nhận thức được hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật cạnh tranh, bị điều tra và xử lý nghiêm minh, nên các doanh nghiệp và hiệp hội đã có thái độ hợp tác tốt hơn trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ phục vụ quá trình điều tra.

– Các quy định pháp luật điều chỉnh hành vi TTHCCT của Việt Nam đã đáp ứng khá đầy đủ các điều kiện của một nền kinh tế thị trường, các nguyên tắc chính của các hiệp định kinh tế thế giới mà Việt Nam gia nhập như EVFTAs,… như không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau, tính minh bạch cũng đã được luật quy định ở mức độ nhất định, không có sự đối xử bất công giữa doanh nghiệp quốc tịch khác nhau hay các hình thức sở hữu của doanh nghiệp trong thủ tục tố tụng.

2.3.2. Hạn chế

Nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ trong lĩnh vực cạnh tranh nói chung và lĩnh vực kiểm soát hành vi TTHCCT nói riêng, ngoài việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, thì việc hoàn thiện chúng sao cho phù hợp với thực tiễn và bối cảnh kinh doanh, phát triển kinh tế, xã hội cũng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.

Trải qua thời gian thực thi các quy định về TTHCCT, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cũng cho thấy một số vấn đề bất cập cần phải hoàn thiện. Chẳng hạn như thiếu một quy định tổng quát về hành vi TTHCCT khiến cho một số hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp về bản chất vi phạm nguyên tắc cạnh tranh nhưng chưa có cơ sở pháp lý để điều chỉnh, hay trường hợp một số quy định còn chưa rõ ràng khiến cơ quan cạnh tranh lúng túng trong việc áp dụng hoặc một số quy định lại cho nhiều cách hiểu khác nhau.

Những khó khăn, bất cập trong thực thi kiểm soát các hành vi TTHCCT xuất phát từ những quy định pháp luật sẽ được phân tích sâu hơn trong phần dưới đây.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhiều ý kiến cũng cho rằng do Luật Cạnh tranh vẫn còn là một lĩnh vực mới nên hiệu quả thực tiễn của luật vẫn còn nhiều điểm cần bàn. Nguyên nhân chính có thể bắt nguồn từ cơ chế thực thi, từ sự hạn chế nguồn lực, sự bất cập trong mô hình cơ quan cạnh tranh hay từ chính sự thiếu rõ ràng, hợp lý, minh bạch trong các quy định pháp lý. Ngoài ra thật sự điều chỉnh TTHCCT trong hoạt động nhượng quyền còn khá mới mẻ so với nhiều nước trên thế giới, mới cả từ hoạt động nhượng quyền thương mại tới pháp luật về cạnh tranh. Điều đó là lý do không nhỏ ảnh hưởng tới việc chúng ta vẫn còn đang loay hoay để tạo ra cơ chế kiểm soát hoàn chỉnh nhất.

  • Liên quan đến các quy định về hành vi TTHCCT.

Sau khi đi phân tích từ lý luận đến thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật, có thể nhận thấy hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam chưa có định nghĩa hoặc quy định chung về TTHCCT. Các quy định hiện hành chỉ nhắm đến các hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc, chưa nhắm vào bản chất phản cạnh tranh của hành vi, đồng thời chưa bao quát được hết các dạng thức kinh doanh mới với tính phức tạp ngày càng cao của doanh nghiệp. Chẳng hạn, thỏa thuận ấn định mức giá sàn, giá trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức cụ thể) hoặc thỏa thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba… là những thỏa thuận có bản chất hạn chế cạnh tranh, nhưng chưa được quy định. Trong khi hành vi kinh doanh, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp (trong đó có hành vi thỏa thuận) thay đổi ngày càng phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau thì tiếp cận quy định – cứng như hiện nay sẽ gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc cụ thể.

Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, pháp luật Việt Nam chưa có những văn bản điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể với các TTHCCT trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Hiện nay Việt Nam vẫn dùng những quy phạm điều chỉnh thỏa thuận trong Luật Cạnh tranh nói chung và các văn bản hướng dẫn nhượng quyền thương mại kết hợp để điều chỉnh. Vấn đề này gây ra cơ số khó khăn đối với việc kiểm soát TTHCCT trong hoạt động nhượng quyền thương mại khi mà vẫn có những điều luật “va” nhau gây ra mâu thuẫn và là kẽ hở cho doanh nghiệp lợi dụng.

  •  Liên quan đến các quy định cấm

Thứ nhất, việc phân nhóm các hành vi TTHCCT theo hai mức độ cấm đoán quy định tại Điều 9, Luật Cạnh tranh là chưa hoàn toàn hợp lý. Cụ thể, một số hành vi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản lượng và thông đồng đấu thầu luôn mang bản chất phản cạnh tranh, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cạnh tranh và có tác động trực tiếp đến các yếu tố thị trường như giá cả, sản lượng, khu vực phân phối… Theo cách tiếp cận của nhiều cơ quan cạnh tranh trên thế giới, các thỏa thuận này bị cấm trong mọi trường hợp mà không cần xem xét đến các yếu tố tác động hay các trường hợp cụ thể, và không được phép miễn trừ. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2, Điều 9 về các TTHCCT bị cấm, các hành vi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường và hạn chế sản lượng (được quy định tại khoản 1, 2, 3, Điều 8, Luật Cạnh tranh và khoản 14, 15, 16, Nghị định 116/2005/NĐ-CP) chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan chiếm từ 30% trở lên.

Quy định này bộc lộ bất cập ở chỗ, một số trường hợp TTHCCT nghiêm trọng, chẳng hạn như thỏa thuận ấn định giá nghiễm nhiên không bị cấm nếu thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận đạt dưới ngưỡng 30%. Trong khi đó, những thỏa thuận này vẫn gây ra tác động tăng giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Trong những trường hợp này, thị phần không phản ánh đầy đủ, chính xác về sức mạnh thị trường, hay nói cách khác là khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Trong kinh tế học, “sức mạnh thị trường” được coi là “khả năng doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ việc tăng giá cao hơn mức giá cạnh tranh hoặc hạn chế sản lượng, chất lượng thấp hơn mức cạnh tranh trong một khoảng thời gian tương đối dài”. Và những vấn đề này được phân tích cụ thể và là dấu hỏi chấm trong các thỏa thuận về hoạt động nhượng quyền thương mại. Hoạt động nhượng quyền thương mại có những đặc tính riêng cần xem xét cân nhắc.

Chính việc tăng giá hay hạn chế sản lượng mà vẫn thu lợi nhuận đã phản ánh sức mạnh thị trường và khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Do đó, việc thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản lượng và thông đồng đấu thầu mặc nhiên vi phạm các quy định về TTHCCT và phải bị cấm tuyệt đối. Quy định cấm có điều kiện đối với các thỏa thuận dạng này sẽ có thể dẫn đến bỏ sót những hành vi thỏa thuận gây hại cho môi trường cạnh tranh và người tiêu dùng.

Thứ hai, thị phần là cơ sở duy nhất để phân biệt hai mức độ cấm đoán cũng gây nên những bất cập trong quá trình thực thi kiểm soát TTHCCT. Trước hết, việc phân biệt các mức độ cấm đoán đối với các hành vi TTHCCT phải dựa trên bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi, tính chất và mức độ tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các yếu tố cạnh tranh trên thị trường. Thị phần chỉ là một trong số rất nhiều tiêu chí được sử dụng để đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, qua đó gián tiếp phản ánh mức độ và phạm vi tác động đối với thị trường nếu xảy ra hành vi thỏa thuận. Đánh giá sức mạnh thị trường hay khả năng gây hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp thỏa thuận ngoài thị phần còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như cấu trúc của chính thị trường đó, năng lực dư thừa của các đối thủ cạnh tranh, rào cản gia nhập thị trường, sức mua của người tiêu dùng…. Ngoài ra, mỗi một ngành có một cấu trúc thị trường riêng và số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh ở các ngành, các lĩnh vực cũng khác nhau. Việc ấn định một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các ngành nghề, lĩnh vực để xác định sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận là không hợp lý.

Do đó, nếu chỉ căn cứ vào ngưỡng thị phần kết hợp 30% của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan để phân biệt các mức độ cấm đoán đối với các hành vi thỏa thuận sẽ là chưa toàn diện, khiến cho việc đánh giá hành vi thỏa thuận bị cấm trên thực tế trở nên cứng nhắc và không phù hợp với thực tiễn.

  • Liên quan đến các quy định miễn trừ

Thứ nhất, phạm vi các loại thỏa thuận được miễn trừ như các quy định hiện hành là chưa hợp lý. Như đã phân tích ở trên, các thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản lượng, các thỏa thuận về hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ [13, Điều 8] luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh và vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cạnh tranh. Theo đó, các thỏa thuận này phải bị cấm tuyệt đối và không được phép miễn trừ. Tuy nhiên, theo Luật Cạnh tranh Việt Nam các thỏa thuận này vẫn thuộc phạm vi các thỏa thuận được phép miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh.

Như vậy gần như bên nhượng quyền sẽ có thể đưa ra các TTHCCT với bên nhận quyền vì các thỏa thuận đó có khả năng được miễn trừ theo Điều 10 Luật Cạnh tranh.

Thứ hai, các quy định về miễn trừ chưa đề cập đến nguyên tắc xác định thời hạn cho hưởng miễn trừ đối với TTHCCT.

Theo quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh, việc miễn trừ đối với TTHCCT là có thời hạn. Việc cho hưởng miễn trừ có thời hạn đối với TTHCCT là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, theo thời gian các thỏa thuận này thường có xu hướng không còn đáp ứng được các điều kiện cần thiết để hưởng miễn trừ nữa.

Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thụ lý hồ sơ, ra quyết định cho hưởng miễn trừ đối với TTHCCT có quyền đề xuất, quyết định về thời hạn miễn trừ. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định về thời hạn miễn trừ trong pháp luật cạnh tranh dẫn đến thiếu căn cứ trong việc xác định thời hạn cho hưởng miễn trừ đối với TTHCCT.

Thứ ba, quy định miễn trừ đối với TTHCCT bị cấm có sự mâu thuẫn liên quan đến thỏa thuận về giá.Cụ thể, hành vi “thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” quy định tại khoản 1, Điều 8 và bị cấm theo khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh thuộc phạm vi các TTHCCT có thể được miễn trừ. Tuy nhiên, trong số các điều kiện để được hưởng miễn trừ lại bao gồm điều kiện “Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá” [13, Điều 10, khoản 1]. Sự mâu thuẫn trong quy định miễn trừ cũng gây ra bất cập trong quá trình thực thi.

Đánh giá chung: Pháp luật Việt Nam chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn các TTHCCT trong HĐNQTM. Việt Nam đang áp dụng những văn bản chung về cạnh tranh với nhượng quyền thương mại. Bản thân Luật Cạnh tranh còn nhiều vấn đề chưa bao quát hết vì vậy khi áp dụng sang hoạt động nhượng quyền còn nảy sinh những mâu thuẫn nhất định với Luật Thương mại. Khi mà hoạt động nhượng quyền thương mại ngày càng phát triển hơn đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện cả các quy định pháp luật về nhượng quyền và cạnh tranh để có thể kiểm soát được hoạt động nhượng quyền vào Việt Nam một cách tốt nhất, cũng như tạo thị trường có tính cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy sự phát triển vững chắc.

Kết luận chương 2

Kết thúc chương 2, tác giả đã chỉ ra nhưng thực trạng diễn ra thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi này. Có thể thấy, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại diễn ra rất phức tạp với nhiều phương thức khác nhau như: thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh, thỏa thuận phân phối cung ứng độc quyền, thỏa thuận mua bán cả gói, thỏa thuận mua giá bán lại, kiểm soát khối lượng đầu ra đầu vào sản phẩm. Thực tế pháp luật Việt Nam hiện nay cũng điều chỉnh về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều điểm hạn chế cần hoàn thiện để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động nhượng quyền khi muốn phát triển ở Việt Nam.

Trong chương 3, tác giả sẽ đưa ra một số quan điểm hoàn thiện pháp luật Việt Nam dựa trên những hạn chế tác giả đã chỉ ra trong chương 2. Phương hướng hoàn thiện của tác giả là việc tiếp thu những kinh nghiệm các nước trên thế giới, xây dựng quy định pháp luật phù hợp bối cảnh kinh tế hiện tại cũng như theo định hướng phát triển kinh tế trong tương lai của Việt Nam.

CHƯƠNG 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại là một mô hình tiến bộ, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro được áp dụng tại nhiều quốc gia. Nhượng quyền thương mại giúp cho bên nhượng quyền mở rộng hệ thống kinh doanh, sử dụng khả năng của các đối tác địa phương để phát triển thị trường mới mà không cần phải đầu tư vốn. Đối với bên nhận quyền, nhượng quyền giúp cho bên nhận quyền sử dụng thương hiệu, kinh nghiệm đã được phát triển cũng như sự trợ giúp, huấn luyện từ bên nhượng quyền, nhưng vẫn đảm bảo cho bên nhận quyền có quyền sở hữu và tính tự chủ tương đối theo quy định của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Do đó, nhượng quyền thương mại được coi là phương tiện hữu hiệu để đi đến thành công của các doanh nghiệp nhỏ (với tư cách là bên nhận quyền).

Là điểm đến của nhiều thương hiệu quốc tế, Việt Nam trở thành mảnh đất tốt cho các thương hiệu cả quốc tế và trong nước nhân rộng, quảng bá hình ảnh của mình nếu biết tận dụng các lợi thế địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế muốn để hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển thuận lợi thì khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đó cũng phải đủ hoàn thiện để các chủ thể kinh doanh có thể an tâm tham gia trị trường. Sau khoảng 10 năm Luật thương mại năm 2005 có hiệu lực, Nghị định 35/2006/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, Thông tư 09/2006/TT-BTM của Bộ Thương mại hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, mãi đến ngày 17/11/2008 Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 106/2008/QĐ-BTC để quy định mức lệ phí mà thương nhân dự kiến nhượng quyền phải nộp khi đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, tất cả các văn bản này đều chưa đề cập đến cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Do đó, hiện nay, các quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 và các văn bản liên quan (phần các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh) vẫn sẽ được áp dụng nếu cơ quan nhà nước về cạnh tranh tự mình hoặc theo đề nghị của các chủ thể kinh doanh thực hiện điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động nhượng quyền thương mại. Vì vậy, một số điểm bất hợp lý được chỉ ra khi cùng một quan hệ, cùng một hành vi lại được điều chỉnh bởi hai luật. Cụ thể là hành vi mang tính chất hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh của bất cứ chủ thể kinh doanh nào cũng bị coi là vi phạm theo Luật cạnh tranh năm 2004, thậm chí một số hành vi bị cấm hoàn toàn, không có trường hợp miễn trừ. Tuy nhiên, cũng hành vi đó, xét trong quan hệ nhượng quyền thương mại lại hoàn toàn hợp lý. Như vậy, yêu cầu đặt ra là pháp luật cạnh tranh Việt Nam cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện nhằm có thể điều chỉnh được cả cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại bởi đây là một hoạt động đặc thù, trong đó tính thống nhất và sự mâu thuẫn lợi ích giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền là hai khía cạnh luôn song song tồn tại.

Các yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể:

– Việc hoàn thiện các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các cá nhân và tổ chức. Đảm bảo yêu cầu này, các quy định của luật cạnh tranh phải nhất quán với các chính sách, đường lối của Đảng để tạo nên sự nhất quán, đồng bộ trong chính sách phát triển của nền kinh tế.

– Các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại góp phần xây dựng được một môi trường cạnh tranh lành mạnh.

– Các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải đảm bảo tính khả thi và hiện thực. Các quy định của Luật cạnh tranh phải xây dựng trên thực tế xã hội kinh tế Việt Nam, không sao chép, phải rõ ràng, không chồng chéo.

– Các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải vừa bảo vệ cả bên nhận quyền và bên nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Ngoài ra việc xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải chính xác, phù hợp với thực tế và là cơ sở để cơ quan quản lý cạnh tranh xác định được đâu là những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm, bị kiểm soát và hành vi được miễn trừ.

– Các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo Luật cạnh tranh Việt Nam phải có sự tương thích với pháp luật khu vực và quốc tế.

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn thực thi các quy định về TTHCCT trong hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam và phân tích bài học kinh nghiệm của EU, Hoa Kỳ, tác giả xin đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát hành vi TTHCCT, trong đó tập trung vào định hướng sửa đổi, hoàn thiện các quy định liên quan đến TTHCCT để phù hợp hơn với thực tiễn thực thi. Các khuyến nghị được xây dựng trên cơ sở phân tích những bất cập xuất phát từ các quy định hiện hành như đã nêu tại chương 2.

Có thể nhận thấy, thực trạng của TTHCCT trong hợp HĐNQTM đều được điều chỉnh xoay quanh các quy định của Luật Cạnh tranh 2004 và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh. Pháp luật Việt Nam chưa điều chỉnh được hết vì các quy định pháp luật này chỉ dùng xoay các yếu tố như thị phần và miễn trừ để xác định hành vi TTHCCT, vì vậy sau khi tìm hiểu tác giả xin đưa ra một số ý kiến xây dựng như sau:

1. Liên quan đến các quy định về hành vi TTHCCT nói chung

Xuất phát từ tình hình thực thi pháp luật, tác giả cho rằng cần bổ sung thêm một điều khoản chung về hành vi TTHCCT, trong đó quy định bản chất chung nhất của hành vi nhằm bao quát hết các dạng thức TTHCCT.

Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì hình thức nhượng quyền trong các lĩnh vực cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó hành vi của doanh nghiệp cũng có xu hướng biến đổi không ngừng nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận, đặc biệt trong các môi trường cạnh tranh khốc liệt. Do đó, các hình thức TTHCCT cũng ngày càng được doanh nghiệp biến hóa nhằm đối phó với các cơ quan cạnh tranh. Mặc dù hình thức thỏa thuận có thể thay đổi, tuy nhiên bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi chỉ liên quan đến những yếu tố cạnh tranh như giá cả, khu vực phân phối, thị trường tiêu thụ, sản lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Pháp luật cạnh tranh cần dựa vào các đặc điểm này của hành vi thỏa thuận để ban hành các quy định điều chỉnh.

Trong bối cảnh hiện nay, để đảm bảo việc thực thi luật có hiệu quả, tránh bỏ sót hành vi hoặc xử lý các hành vi thỏa thuận cần thiết để mang lại lợi ích kinh tế – xã hội, tác giả cho rằng Việt Nam cần kết hợp hài hòa phương pháp liệt kê hiện tại và phương pháp tiếp cận hợp lý. Đó là ngoài việc liệt kê cụ thể các loại thỏa thuận theo dấu hiệu thì luật cần bổ sung một điều luật có độ bao quát toàn bộ các hợp đồng, liên kết, hay bất kỳ hoạt động thông đồng nào khác (không phụ thuộc vào tên gọi hay hình thức) có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh.

2. Liên quan đến các quy định cấm

Thứ nhất, xem xét điều chỉnh các hành vi thuộc nhóm bị cấm tuyệt đối và cấm tùy theo từng trường hợp cụ thể. Như đã trình bày tại chương 1, TTHCCT có thể bao gồm các thỏa thuận ngang nghiêm trọng (thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản lượng và thông đồng đấu thầu), thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng và các thỏa thuận dọc.

Cũng như phân tích, thỏa thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel) luôn bị các cơ quan cạnh tranh quốc tế coi là các hành vi làm phương hại tới cạnh tranh nhiều nhất và vì vậy các nước có xu hướng cấm nhóm hành vi này trong mọi trường hợp và không xem xét miễn trừ đối với 4 dạng hành vi này. Đối với các hành vi thỏa thuận còn lại, các nước đều có quy định cho phép cơ quan cạnh tranh cân nhắc các lợi ích và chi phí đối với cạnh tranh, đối với người tiêu dùng và đối với toàn xã hội để ra quyết định cấm hoặc không cấm các doanh nghiệp thực hiện tùy từng trường hợp cụ thể, tùy đặc thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường.

Tại Pháp, bộ Luật dân sự Pháp điều L. 410-1 quy định:

Các dạng thoả thuận minh bạch hoặc thoả thuận ngầm, mặc dù do một công ty có trụ sở đặt ngoài lãnh thổ Pháp thuộc một tập đoàn thực hiện qua khâu trung gian một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, mà có nội dung hoặc có thể gây hậu quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường, thì đều bị nghiêm cấm, nhất là trong các trường hợp các thoả thuận này có mục đích sau:

1) Hạn chế các doanh nghiệp khác thâm nhập vào thị trường hoặc thực hiện hành vi cạnh tranh một cách tự do;

2) Ngăn cản việc xác định giá thông qua quy luật cạnh tranh bằng cách tạo ra sự tăng hoặc giảm giá một cách giả tạo;

3) Hạn chế hoặc kiểm soát quá trình sản xuất, các thị trường, các hình thức đầu tư hoặc tiến bộ kỹ thuật;

4) Phân chia thị trường hoặc các nguồn phân phối sản phẩm”

Bộ luật thương mại Pháp cấm mọi cam kết, thỏa thuận hoặc điều khoản hợp đồng có nội dung hoặc có hậu quả “hạn chế việc tiếp cận thị trường hoặc tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp khác” và “phân chia các thị trường và các nguồn cung cấp”.

Xem xét cụ thể ví dụ vụ tranh chấp được giải quyết năm 1987 bởi Hội đồng cạnh tranh Pháp như sau:

Hợp đồng NQTM bán quần áo trẻ em mang nhãn hiệu Z, theo đó bên nhượng quyền áp đặt bên nhận quyền nhiều nghĩa vụ, trong đó có độc quyền lãnh thổ và độc quyền cung cấp sản phẩm. Các điều khoản này đã bị Hội đồng cạnh tranh Pháp coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh. Theo Hội đồng, đúng là bên nhượng quyền đã buộc các bên nhận quyền phải tuân thủ các quy định về đảm bảo sự đồng nhất của hệ thống (và như vậy buộc phải mua sản phẩm của bên nhượng quyền), về hình ảnh của nhãn hiệu (và như vậy phải bài trí cửa hàng theo yêu cầu của bên nhượng quyền), nhưng “bên nhượng quyền không chứng minh được rằng sản phẩm của mình là duy nhất và không thể tìm thấy các sản phẩm tương tự trên thị trường và mình là doanh nghiệp duy nhất có thể thực hiện các dịch vụ bài trí cửa hàng kiểu này”. Vụ việc sau đó được Tòa phúc thẩm Paris xử chung thẩm. Tòa phúc thẩm cũng đồng tình với Hội đồng cạnh tranh và quyết định rằng “ngay cả khi bị hạn chế ở cách bài trí cửa hàng cho phù hợp với hình ảnh nhãn hiệu của bên nhượng quyền thì điều khoản này cũng đã có thể có hậu quả hạn chế tự do cạnh tranh” [7].

Như vậy, pháp luật Pháp dường như đã có những quy định chặt chẽ hơn pháp luật VN. Điều khoản độc quyền cung cấp sản phẩm chỉ hợp pháp nếu nó cần thiết để bảo vệ bí quyết kinh doanh, sự đồng nhất của hệ thống và không thể tìm thấy trên thị trường các sản phẩm đồng loại thay thế.

Từ thực tiễn thực thi pháp luật và học hỏi kinh nghiệm các nước đã đi trước, tác giả cho rằng cần điều chỉnh các quy định cấm của pháp luật cạnh tranh Việt Nam theo hướng:

  • Cấm tuyệt đối đối với dạng thỏa thuận luôn bị coi là nghiêm trọng trong mọi trường hợp gồm: thỏa thuận ấn định giá; thỏa thuận phân chia thị trường; thỏa thuận hạn chế, kiểm soát sản lượng sản xuất, mua bán và thông đồng đấu thầu.
  • Cấm theo từng trường hợp cụ thể đối với các dạng thỏa thuận khác tùy theo đặc thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường.

Có như vậy, việc thực thi các quy định của pháp luật cạnh tranh về hành vi TTHCCT mới có thể phục vụ tốt cho mục tiêu tạo điều kiện cho hoạt động nhượng quyền phát triển và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng Việt Nam.

Thứ hai, cần xem xét sửa đổi cách tiếp cận đánh giá TTHCCT dựa theo tiêu chí duy nhất là thị phần như hiện nay. Một số ý kiến cho rằng quy định như hiện tại (chỉ cần xem xét thị phần của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận) là dễ thực thi và phù hợp với các cơ quan cạnh tranh còn non trẻ. Ở một khía cạnh khác, một số ý kiến khác cho rằng việc ban hành các quy định điều chỉnh hành vi chỉ vì mục tiêu tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan thực thi luật mà làm sai lệch bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc điều chỉnh là cần phải xem xét lại bởi nếu không việc thực thi các quy định sẽ không còn có ý nghĩa, thậm chí trong một số trường hợp còn phản tác dụng. Chính vì vậy, các nước khi ban hành các quy định điều cấm đối hành vi TTHCCT đều căn cứ vào bản chất gây hạn chế cạnh tranh của hành vi và thị phần chỉ là một trong các yếu tố để cơ quan cạnh tranh có thể xem xét khi đánh giá về vụ việc.

Án lệ Sylvania [24] (Continental T.V v. GTE Sylvania) của Mỹ là một án lệ nổi tiếng. Trong án lệ Sylvania, Tòa án tối cao Mỹ đã xem xét một quy định trong HĐNQTM cấm bên nhận quyền bán sản phẩm của bên nhượng quyền ngoài khu vực đã thống nhất trước có phải là một hạn chế thương mại bất hợp lý vi phạm pháp luật cạnh tranh (Điều 1 Đạo luật Sherman 1890) hay không. Vụ kiện này xảy ra giữa hai bên là Công ty Continental T.V và Công ty GTE Sylvania. Tại vụ kiện này, bên nhận quyền đã viện vào quy định trong HĐNQTM là bên nhượng quyền cấm bên nhận quyền bán sản phẩm của bên nhượng quyền ngoài vị trí khu vực đã thống nhất trong hợp đồng là một quy định vi phạm pháp luật cạnh tranh để không thực thi hợp đồng.

Tòa án tối cao Mỹ cho rằng những hạn chế cạnh tranh như vậy làm giảm cạnh tranh đối với một thương hiệu nhất định của một loại sản phẩm, nhưng trên thực tế quy định này lại có thể thúc đẩy cạnh tranh giữa các thương hiệu khác nhau của cùng một loại sản phẩm hay giữa các sản phẩm tương tự có khả năng thay thế nhau. Mà điều này nếu đem so sánh giữa lợi ích khuyến khích cạnh tranh và ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh và nếu coi sự cạnh tranh giữa các bên nhận quyền trong một thương hiệu là không quan trọng bằng sự cạnh tranh giữa các thương hiệu sản phẩm với nhau, tức theo nguyên tắc lập luận hợp lý [28], thì sẽ là không vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Với một cách thức linh hoạt nhất, pháp luật cạnh tranh của Mỹ luôn nhìn nhận một hành vi hoặc thỏa thuận trong quan hệ nhượng quyền thương mại trên các khía cạnh tích cực và tiêu cực, hợp lý và bất hợp lý của chúng để kết luận rằng những hành vi hay thỏa thuận đó có phù hợp hay bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh khi bản thân chúng mang màu sắc của những hành vi hạn chế cạnh tranh.

Đối với các vụ việc liên quan đến các hành vi thỏa thuận không thuộc nhóm thỏa thuận nghiêm trọng, pháp luật cạnh tranh của phần lớn các nước như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản… đều áp dụng nguyên tắc hợp lý khi đánh giá vụ việc. Xem xét và so sánh 2 án lệ:

Trong án lệ Siegel v Chicken Delight, Inc [25] Chicken Delight đã tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại thiết lập các cửa hàng bán thức ăn mang thương hiệu Chicken Delight cho các bên nhận quyền, và không thu phí nhượng quyền cũng như phí bản quyền. Tuy nhiên Chicken Delights yêu cầu các bên nhận quyền phải mua các dụng cụ nấu ăn, bao bì đóng gói thức ăn và một số vật liệu khác của Chicken Delight với giá cao hơn giá các sản phẩm cùng loại mà các nhà cung cấp khác bán ra. Tòa án phúc thẩm liên bang cho rằng điều khoản ràng buộc bán kèm trong hợp đồng nhượng quyền thương mại của Chicken Delight là vi phạm PLCT.

Tuy nhiên, trong án lệ Kentucky Fried Chicken v Diversified Packing[26] sau đó, khi KFC bên nhận quyền yêu cầu bên nhượng quyền mua các thiết bị và nguyên liệu từ KFC hay từ các nhà cung cấp khác được KFC chấp thuận bằng văn bản nếu thỏa mãn những yêu cầu về chất lượng mà KFC công bố, và việc chấp thuận như vậy không thể bị hủy bỏ một cách bất hợp lý, thì ràng buộc như vậy lại được Tòa án phúc thẩm liên bang cho là không vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Có thể thấy trong cùng một điều khoản về độc quyền cung cấp thiết bị, nguyên liệu nhưng vụ án của KFC lại được chấp thuận bởi lý do bảo đảm chất lượng sản phẩm, hình ảnh của bên nhượng quyền. Còn án lệ của Chicken lại không được chấp nhận. Và việc xem xét có phải TTHCCT không cần xem xét đến thị phần.

Như vậy, khác với tiếp cận của Việt Nam, trong các tiêu chí để đánh giá một hành vi có thuộc diện bị cấm hay không, các cơ quan cạnh tranh quốc tế chỉ coi tiêu chí thị phần không hẳn là một tiêu chí chiếm vị trí quan trọng. Như đã trình bày tại Chương 1, khi đánh giá vụ việc, cơ quan cạnh tranh trước hết đánh giá liệu thỏa thuận đang xem xét có gây hạn chế cạnh tranh hay không.

Trong trường hợp thỏa thuận có khả năng gây hạn chế cạnh tranh, cơ quan cạnh tranh sẽ tiếp tục đánh giá liệu thỏa thuận đó có mang lại lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu tác động thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó mang lại hay không. Các tiêu chí có thể giúp các cơ quan cạnh tranh đánh giá có thể bao gồm (1) lợi ích kinh tế mà thỏa thuận đó mang lại; (2) tính cần thiết của thỏa thuận nhằm đạt được các lợi ích kinh tế đó; (3) phần lợi ích được chuyển/chia sẻ cho người tiêu dùng và; (4) tính không loại bỏ cạnh tranh của thỏa thuận.

Tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước, tác giả cho rằng Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận dựa chủ yếu vào yếu tố thị phần một cách cứng nhắc như hiện nay. Để có thể thực hiện được điều này, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để đưa ra một bộ tiêu chí đánh giá phù hợp, theo đó đảm bảo sự cân bằng giữa phương pháp liệt kê và tiếp cận hợp lý về mặt kinh tế.

Việt Nam học hỏi các nguyên tắc về lập luận hợp lý của các nước trên thế giới.

  • Trong mua bán cả gói, khi xem xét ràng buộc bán kèm trong nhượng quyền thương mại, cơ quan có thẩm quyền về cạnh tranh cần phân tích khái niệm “không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” và khái niệm “Phù hợp với hệ thống kinh doanh” do bên nhượng quyền quy định trên cơ sở bối cảnh kinh tế của hoạt động nhượng quyền thương mại, đặc biệt cần tính đến yếu tố: tồn tại hay không tồn tại các biện pháp khác vẫn đạt được mục đích là nhằm bảo vệ bản sắc, uy tín và chất lượng của hệ thống nhượng quyền thương mại nhưng lại ít có ảnh hưởng tiêu cực lớn đến cạnh tranh; và ràng buộc mua bán cả gói đó có ảnh hưởng thực sự ngăn cản các đối thủ cạnh tranh khác tham gia trong thị trường sản phẩm được bán kèm.
  • Trong quy định về phân chia khu vực kinh doanh đối với hoạt động nhượng quyền thương mại, xem xét theo hướng tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên, đồng thời xem xét thỏa thuận này trên cơ sở phân tích hành vi của các bên trên cơ sở các điều kiện thị trường liên quan trước và trong khi các thỏa thuận đó được thực hiện. Dựa trên kết quả phân tích, pháp luật sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng của thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh đối với sự cạnh tranh trong hệ thống nhượng quyền thương mại và giữa các bên trong thỏa thuận với các bên thứ ba. Mức độ ảnh hưởng này mới là căn cứ để quyết định một thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh trong quan hệ nhượng quyền thương mại có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không.

3. Liên quan đến các quy định miễn trừ

Như đã trình bày tại mục 2 trên đây, đối với các thỏa thuận thuộc nhóm nghiêm trọng, bao gồm hành vi: (1) thỏa thuận ấn định giá; (2) thỏa thuận phân chia thị trường; (3) thỏa thuận hạn chế sản lượng, Việt Nam cần cân nhắc sửa đổi quy định hiện tại theo hướng cấm trong mọi trường hợp và không áp dụng miễn trừ đối với nhóm hành vi này. Việt Nam cần nghiên cứu áp dụng nguyên tắc hợp lý, theo đó cơ quan cạnh tranh sẽ xem xét trên cơ sở đánh giá yếu tố chi phí và lợi ích của thỏa thuận. Theo cách tiếp cận này, Việt Nam không cần phải ban hành các quy định về miễn trừ. Các điều kiện xem xét miễn trừ quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh hiện nay có thể được đưa vào bộ tiêu chí để đánh giá chi phí và lợi ích của hành vi thỏa thuận.

Miễn trừ, nếu có, có thể xem xét miễn trừ theo các đặc thù từng ngành trong hoạt động nhượng quyền tuy nhiên việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc lạm dụng và làm giảm thiểu vai trò, vị thế cũng như hiệu quả của Luật Cạnh tranh. Đồng thời, thời hạn miễn trừ và các điều kiện gia hạn thời hạn được hưởng miễn trừ cũng cần được xem xét quy định.

Xem xét án lệ tranh chấp giữa công ty Pronuptia de Paris de Francfort-sur-le-Main [27], một chi nhánh của công ty Pháp cùng tên và bên nhận quyền tại Đức. Theo các quy định của ba hợp đồng ký năm 1980, bên nhận quyền phải cam kết chỉ bán các sản phẩm gắn với tên thương mại và nhãn hiệu Pronuptia de Paris trong các cửa hàng do bên nhượng quyền chỉ định; mua của bên nhượng quyền 80% số váy cưới, váy dạ hội cũng như các phụ kiện và các đồ dùng phục vụ lễ cưới, phần còn lại phải mua của các nhà cung cấp do bên nhượng quyền chỉ định. Bên nhận quyền cũng cam kết phải bán sản phẩm theo giá mà bên nhượng quyền đề xuất. Không hài lòng với kết quả kinh doanh, bên nhận quyền đã không trả phí kỳ vụ cho bên nhượng quyền, và kiện bên nhượng quyền đòi Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu vì chứa các điều khoản vi phạm các nguyên tắc tự do cạnh tranh. Sau rất nhiều tranh cãi ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm, vụ việc được đưa lên xét xử tại Tòa án tối cao Liên bang Đức (Bundesgerichtshof). Do đây là tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng chứa các nội dung có tác động đến thương mại nội khối, nên Tòa án tối cao Đức đã thỉnh thị Tòa án Tư pháp châu Âu. Đối với điều khoản độc quyền cung cấp sản phẩm, Tòa án Tư pháp châu Âu có nhận định rằng “các điều khoản phân chia thị trường giữa bên nhượng quyền và các bên nhận quyền hoặc giữa các bên nhận quyền với nhau là các TTHCCT theo điều 85, đoạn 1”. Tuy nhiên, Tòa cũng lưu ý rằng điều khoản độc quyền cung cấp sản phẩm có thể được hưởng miễn trừ nếu “cần thiết để bảo vệ uy tín của hệ thống”.

Bản chất HĐNQTM đã có những đặc thù riêng như phân tích ở phần 1 lý luận, như vậy các trường hợp miễn trừ có thể được xem xét cân nhắc thỏa mãn các điều kiện đặc thù của HĐNQTM. Học hỏi những kinh nghiệm trong các án lệ, vụ việc nổi tiếng có thể thấy pháp luật các nước quy định chặt chẽ về vấn đề miễn trừ như thế này.

Ngoài ra pháp luật Cạnh tranh nói chung cần hoàn thiện về các quy định về chế tài, xử lý vi phạm khi xảy ra thỏa thuận cũng như xem xét chế độ khoan hồng để đảm bảo hoàn thiện tổng quan pháp luật Cạnh tranh.

Cơ quan nhà nước về cạnh tranh cũng nên áp dụng chương trình khuyến khích để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã tham gia thỏa thuận tố cáo thỏa thuận giữa các bên. Chương trình khuyến khích này, với việc áp dụng các điều khoản khoan hồng khi doanh nghiệp thực hiện tố cáo hành vi vi phạm sẽ góp phần giúp cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh đồng thời là cơ quan quản lý nhà nước về nhượng quyền thương mại nên sớm chủ động ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể trong đó cần đưa ra được giới hạn (dù chỉ tương đối) của những hành vi có dấu hiệu hạn chế cạnh tranh nhưng không vi phạm pháp luật cạnh tranh để tạo sự an tâm cho các bên nhượng quyền, nhằm khuyến khích hoạt động nhượng quyền thương mại trong khi đó vẫn đảm bảo thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Kết luận chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu từ chương 1 đến chương 3 có thể thấy, việc hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại là yêu cầu khách quan, tất yếu. Quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại phải dựa trên những quan điểm đảm bảo tính khoa học, minh bạch, thống nhất, khả thi và đảm bảo ghi nhận đầy đủ bản chất của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Tổng kết chương 3, tác giả đưa ra một số kiến nghị để sửa đổi quy định cấm, quy định miễn trừ, cũng như muốn pháp luật xây dựng một quy định chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Mục đích cuối cùng cũng là cân bằng lợi ích giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh.

KẾT LUẬN

Sau hội nhập, nền kinh tế Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển hơn bao giờ hết trong đó có hoạt động nhượng quyền thương mại. Việt Nam trở thành một trong những điểm đến kinh tế hấp dẫn. Để hoàn thiện môi trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh đòi hỏi pháp luật có những cơ chế hợp lý để kiểm soát thật hiệu quả, tạo điều kiện cho các thương hiệu nhượng quyền du nhập vào Việt Nam.

Hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại xuất hiện từ bản chất khách quan của xu hướng cạnh tranh. Trong một chừng mực nào đó thì việc TTHCCT diễn ra để duy trì tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, đảm bảo chất lượng cũng như thương hiệu. Tuy nhiên nếu vượt quá giới hạn đó, nó sẽ là nhân tố gây kìm hãm sự phát triển kinh tế.

Như vậy yêu cầu hoàn thiện pháp luật là tất yếu. Luận văn mới chỉ nghiên cứu một cách đơn lẻ, đi sâu vào từng dạng thỏa thuận về lý luận và thực tiễn để đưa ra những ý kiến góp ý với mong muốn hoàn thiện pháp luật về TTHCCT trong hợp đồng nhượng quyền. Tính toán việc xác định đúng hành vi thỏa thuận cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm đặc thù của hoạt động nhượng quyền.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

  1. Trịnh Minh Anh, Triển khai Luật Cạnh tranh trong thực tiễn nền Kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, P. Chánh văn phòng Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
  2. Bộ Công thương (2009), Hành vi hạn chế Cạnh tranh – Một số Vụ việc điển hình của châu Âu, dự án Mutrap do Liên minh Châu âu tài trợ và Bộ Công thương phối hợp thực hiện.
  3. Bộ Thương mại (2007), Các cam kết gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam, Tài liệu bồi dưỡng.
  4. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang (2016), Đại hội lần thứ VI của Đảng: “Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước”, www.bacgiang.gov.vn, (đăng ngày 20/01/2016).
  5. Cục Quản lý Cạnh tranh (VCA) (2012), Báo cáo rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam.
  6. Bùi Ngọc Cường (2007), “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (tháng 07).
  7. Ngô Quốc Chiến (2014), “Một số điều khoản độc quyền trong HĐNQTMSo sánh pháp luật Việt Nam, Pháp và Liên minh châu Âu”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Trường Đại học Ngoại thương.
  8. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, Hà Nội.
  9. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2006), Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, Hà Nội.
  10. Nguyễn Thị Dung (2012), Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
  11. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2009), Các TTHCCT trong HĐNQTM dưới góc độ pháp luật cạnh tranh Việt Nam và Liên minh châu Âu, Luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật TP. HCM.
  12. Hằng Nga (2009), TTHCCT trong HĐNQTM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  13. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật cạnh tranh, Hà Nội.
  14. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật thương mại, Hà Nội.
  15. Nguyễn Thị Tình (2014), “Pháp luật điều chỉnh hành vi ấn định giá bán”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp.
  16. Nguyễn Thị Tình (2014), “Ràng buộc bán kèm trong HĐNQTM”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, Viện nghiên cứu Châu Âu.
  17. Nguyễn Thị Tình (2015), Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
  18. Nguyễn Thanh Tú (2007), “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (3).
  19. Phùng Văn Thành (2014), Khái niệm, bản chất và đặc trưng pháp lý của TTHCCT theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, Phòng điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh đăng trên web www.vca.gov.vn.
  20. Nguyễn Thị Hồng Vân – Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh (2011), “Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (202).
  21. Nguyễn Thị Vân (2011), HĐNQTM theo pháp luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
  22. Vũ Đặng Hải Yến (2005), “Nhượng quyền thương mại ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiền”, Tạp chí luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
  23. Vũ Đặng Hải Yến (2006), “Một số vấn đề về TTHCCT”, Tạp chí luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

II. Tài liệu tiếng nước ngoài

  1. Continental T.V. Inc. v GTE Sylvania, 433 U.S. 36, 40 & 50-59 (1977).
  2. Siegel v Chicken Delight, Inc., 448 F.2d 43 (9th Cir. 1971), cert. denied 405 U.S. 955 (1972).
  3. Kentuckey Fried Chicken v Diversified Packing, 549 F.2d 368, 375-378 (5th Cir. 1977).
  4. ECJ, Case 161/84, Pronuptia de Paris GmbH v Pronuptia de Paris Irmgard Schillgallis, 28/1/1986, [1986]ECR 353.
  5. State Oil Co. v Khan, 522 U.S. 3, 13-14 (1997).

Bài viết cùng chuyên mục:

Bài luận liên quan:

1900.0191