Thực thi Luật Cạnh tranh trong doanh nghiệp, thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh của doanh nghiệp Việt Nam

Thực thi Luật Cạnh tranh trong doanh nghiệp, thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh của doanh nghiệp Việt Nam

15/01/2009

1. Tổng quan về hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cạnh tranh:

Năng lực cạnh tranh là sức mạnh của doanh nghiệp được thể hiện trên thương trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng lực cạnh tranh. Từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

Cạnh tranh được thừa nhận là yếu tố đảm bảo duy trì tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế Việt Nam, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của cơ chế thị trường. Trong nỗ lực tạo lập môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, ngày 03/12/2004, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 và Luật này đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2005.

Với 6 chương, 123 Điều, Luật Cạnh tranh được ban hành nhằm: 

– Kiểm soát các hành vi gây hạn chế cạnh tranh hoặc các hành vi có thể dẫn đến việc gây hạn chế cạnh tranh, đặc biệt khi mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế

– Bảo vệ quyền kinh doanh chính đáng của các doanh nghiệp, chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

– Tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng

Để đạt được mục tiêu này, Luật Cạnh tranh chia các hành vi chịu sự điều chỉnh thành hai nhóm hành vi là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Đối với nhóm hạn chế cạnh tranh, Luật điều chỉnh 3 dạng hành vi gồm thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Đối với nhóm cạnh tranh không lành mạnh, Luật điều chỉnh 10 hành vi, gồm chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác…và các hành vi khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật do Chính phủ quy định.

Về đối tượng điều chỉnh, Luật cạnh tranh áp dụng đối với 2 nhóm đối tượng, gồm tổ chức, cá nhân kinh doanh (doanh nghiệp), kể cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước; và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Ngoài ra, tại Điều 6, Luật Cạnh tranh cũng quy định các hành vi bị cấm đối với cơ quan quản lý nhà nước.

Để nhanh chóng đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống, tính đế  nay các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành về một số nội dung mang tính chất kỹ thuật chưa được quy định chi tiết trong Luật. Các văn bản này bao gồm:

Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh

Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh 

Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 về việc Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh

Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh 

Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/ND-CP

Cho đến nay, có thể nói hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh đã tương đối hoàn thiện, là cơ sở để giúp các doanh nghiệp định hình chiến lược kinh doanh phù hợp với các quy định của pháp luật.

2. Thực tiễn thi hành Luật Cạnh tranh trong doanh nghiệp Việt Nam

Thực tế cho thấy mặc dù Luật Cạnh tranh có hiệu lực đã được hơn 3 năm với những điều luật chặt chẽ và quy định xử phạt được đánh giá là khá "mạnh", song sau hơn 03 năm thực hiện, luật vẫn chưa thực sự có ảnh hưởng lớn với doanh nghiệp, thậm chí nhiều quy định vẫn còn “nằm trên giấy”. Theo đánh giá của các chuyên gia pháp luật thì Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã tiếp cận rất gần với pháp luật quốc tế, đủ cơ sở để tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng, kiểm soát độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng cũng như hội nhập quốc tế. Mặc dù việc thực thi Luật Cạnh tranh sẽ có những tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và giúp họ loại bỏ nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh song các doanh nghiệp Việt Nam lại tỏ ra rất thờ ơ với điều này. Thậm chí nhiều doanh nghiệp khi được hỏi còn không biết đến sự tồn tại của Luật Cạnh tranh cũng như cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thi hành luật này.

Theo quy định của Luật Cạnh tranh thì các hình thức xử lý vi phạm Luật Cạnh tranh của chúng ta khá nặng. Mức phạt tiền tối đa lên tới 10% doanh thu của doanh nghiệp vi phạm, ngoài ra còn có hình phạt bổ sung như thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. Ngoài ra, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh: xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, lạm dụng vị thế độc quyền… sẽ bị ngăn chặn và xử lý nghiêm nhờ Luật. Song dường như các doanh nghiệp vẫn chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng của luật này khiến Luật Cạnh tranh chưa được ứng dụng vào thực tế một cách đúng mức. Trên thực tế nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại không được xử lý dứt điểm. Do đó, một vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm là việc thực thi Luật Cạnh tranh có minh bạch, ổn định và không phân biệt đối xử? Đây là cũng là nền tảng cho một nền kinh tế thị trường ổn định vững mạnh.

3. Những hạn chế về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Khả năng cạnh tranh (competitiveness) là thuật ngữ được dùng để nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ có chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ và kỹ thuật trong so sánh quốc tế.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế. Nói cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức thật sự to lớn. Mặc dù có nhiều lợi thế cạnh tranh nhưng doanh nghiệp Việt Nam cũng còn rất nhiều hạn chế và yếu kém cụ thể :

Thứ nhất:Chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế – xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các doanh nghiệp hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ doanh nghiệp mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.

Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay yêu cầu các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên thương trường. Năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp và ở mức độ cao hơn hẳn những năm trước; trong đó cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh tranh.

Thứ hai:Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,… thì các sản phẩm sản xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực.

Thứ ba:Quy mô vốn nhỏ vàsự lạc hậu về khoa học – công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam. Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vô cùng nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao. Đa số các doanh nghiệp này đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, 76% máy móc, dây chuyền công nghệ được sản xuất từ những năm 1950 – 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% số thiết bị là đồ tân trang… Tóm lại, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2% (tỷ lệ này ở Thái Lan là 31%, Ma-lai-xi-a là 51% và Xin-ga-po là 73%). Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ta đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chi phí khoảng 0,2% – 0,3% tổng doanh thu

Thứ tư:Nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một bộ phận lớn doanh nghiệp còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về cạnh tranh, thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp bị các cơ quan chức năng phàn nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp còn nhiều hạn chế. Thậm chí, rất nhiều doanh nghiệp không hề quan tâm đến những quy định của pháp luật kinh tế nói chung và Luật Cạnh tranh nói riêng, điều này xuất phát từ tâm lý “làm ăn chui” vẫn còn khá phổ biến

Thứ năm:Hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu

Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống, sản phẩm thép và kim loại màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe máy…) đều phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả các loại nguyên vật liệu này trên thế giới có xu hướng gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm.

Ngoài ra, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Các doanh nghiệp chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI, chỉ có khoảng 10% số doanh nghiệp là thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu; Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị trường nước ngoài không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu là các DNNVV không có các hoạt động tìm hiểu thị trường nước ngoài.

Thứ sáu,thiếu thông tin, đặc biệt là những thông tin có tính dự báo, phục vụ cho hoạt động kinh doanh vẫn đang là một khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay. Các cơ quan chức năng phụ trách nghiên cứu, dự báo và phổ biến tác động của thị trường còn ít, thiếu tính kịp thời. Nhiều thông tin đánh giá còn chưa chính xác dẫn đến việc doanh nghiệp bị rơi vào thế bị động.

Thứ bảy, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế.

 Trong điều kiện khó khăn, nhiều doanh nghiệp rất chủ động trong việc điều chỉnh chiến lược và kế hoạch kinh doanh, đưa ra những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho chính mình như rà soát lại và điều chỉnh đầu tư, đa dạng hoá sản phẩm, phát huy tối đa công suất, tiết kiệm chi phí, đổi mới thiết bị, tăng năng suất, áp dụng các biện pháp quản lý tiên tiến, đa dạng hoá các kênh huy động vốn, đa dạng thị trường xuất khẩu, sử dụng các công cụ chống rủi ro, thương lượng với đối tác để điều chỉnh tăng giá bán đối với các hợp đồng đã ký và hợp đồng mới, tìm nguồn cung cấp mới, nguyên liệu thay thế rẻ hơn, chấp nhận giảm lợi nhuận để giữ chân khách hàng…Mặc dù vậy, phần lớn các doanh nghiệp còn lúng túng trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh và thiếu khả năng ứng xử linh hoạt trong điều kiện môi trường kinh doanh thay đổi, một mặt do thiếu thông tin, mặt khác do năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế.

Hoạt động xúc tiến thương mại trong doanh nghiệp còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả thiết thực. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến, giới thiệu một cách bài bản về sản phẩm cho khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng được giá trị và ý nghĩa của xúc tiến thương mại, quảng cáo…Vì vậy, chi phí cho quảng cáo rất thấp, chỉ dưới 1% doanh thu (tỷ lệ này của các doanh nghiệp nước ngoài chiếm khoảng 10% đến 20% doanh thu).

4. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang có những đóng góp ngày càng quan trọng hơn trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Trước sức ép của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và tình hình lạm phát tăng cao, doanh nghiệp hiện nay đang đứng trước những thách thức to lớn, đòi hỏi phải có những chiến lược ổn định, bền vững nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng gay gắt của cơ chế kinh tế thị trường và sức ép hội nhập quốc tế. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới thì cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

4.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước:

Thứ nhất, tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước về mặt chính sách đầu tư trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp.

Theo mục tiêu của kế hoạch phát triển DNVVN 2006-2010 là đến năm 2010, các DNVVN tạo thêm được 2, 5 triệu chỗ làm việc mới, xuất khẩu trực tiếp 3-6%. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các DNVVN, cơ chế chính sách của Nhà nước cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và thực sự tạo điều kiện hỗ trợ sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên thương trường trong và ngoài nước.

Trong thời gian gần đây, cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp đã từng bước được hoàn thiện. Ngày 28/5/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hiện tại, chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đang được Bộ Tư pháp xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt.

Tuy nhiên, để những chính sách hỗ trợ thực sự thiết thực cho doanh nghiệp thì các cơ quan quản lý cần có có nhiều biện pháp cụ thể, đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương để tăng cường sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển năng động và có hiệu quả của doanh nghiệp.

Thứ hai, mở rộng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp.

Trong điều kiện hiện nay, thiếu vốn là một trong những khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực DNNVV. Ðể giải quyết vấn đề này, một mặt các doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hoá cơ cấu vốn để không phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng. Mặt khác, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tăng cường nguồn lực cho các ngân hàng và cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp về lãi suất, bảo lãnh tín dụng và năng lực xây dựng phương án kinh doanh… tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, Chính phủ chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kế hoạch cắt giảm đầu tư và chi tiêu công và dành một phần nguồn lực tiết kiệm bổ sung cho nguồn tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp.

Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực điều hành kinh tế ở cấp địa phương đồng thời tăng cường năng lực công tác điều tiết và phối hợp vĩ mô của các bộ, ngành trung ương là một yêu cầu quan trọng hiện nay. Cần tập trung hoàn chỉnh sớm và nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển kinh tế ngành và liên kết vùng, tăng cường hệ thống thông tin kinh tế, đào tạo cán bộ để hỗ trợ cho hoạt động điều hành kinh tế của các cơ quan chính quyền, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tại các địa phương trên cả nước phát triển đồng đều..

Thứ tư:hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm. Chính phủ cần thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình thức đa dạng) trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, có thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế.

Thứ năm:nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý trong việc đánh giá dự báo tác động của thị trường thế giới và thị trường trong nước, giúp doanh nghiệp nắm được những thông tin kịp thời, chính xác để có thể có chiến lược phù hợp với bối cảnh nền kinh tế. Đây là một nội dung quan trọng nhưng ở Việt Nam còn chưa chú trọng. Việc hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin và kiến thức để triển khai tốt công tác này là nhiệm vụ quan trọng của các hiệp hội doanh nghiệp và cả các cơ quan Chính phủ. Chính phủ cần tăng cường công tác nghiên cứu dự báo, bổ sung và hoàn thiện sớm các quy hoạch phát triển ngành, vùng, giúp định hướng cho việc xác định chiến lược của doanh nghiệp.

Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách tăng cường công tác thông tin cho doanh nghiệp để tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp tiếp cận các thông tin chính thức từ các cơ quan Chính phủ và các cơ quan liên quan. Trong thời gian qua nhiều cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp với các cơ quan chính quyền nhằm trao đổi thông tin, đối thoại về những vấn đề doanh nghiệp quan tâm, đồng thời chia sẻ thông tin từ chính cộng đồng doanh nghiệp đã được tổ chức, góp phần cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời cho doanh nghiệp để định hướng kinh doanh.

4. 2. Về phía doanh nghiệp:

Thứ nhất, bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo của các chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Đây là yếu tố quyết định lớn thành công trong hoạt động của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, cần có sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp và sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức hữu quan; nhưng sự chủ động, tích cực phấn đấu của bản thân mỗi giám đốc và nhà kinh doanh là nhân tố quyết định. Một số kiến thức và kỹ năng có thể đã có nhưng cần được hệ thống hoá và cập nhật, trong đó, cần đặc biệt chú ý những kỹ năng hữu ích như: Kỹ năng quản trị hiệu quả trong môi trường cạnh tranh; kỹ năng lãnh đạo của nghiệp chủ và giám đốc doanh nghiệp; kỹ năng quản lý sự thay đổi; kỹ năng thuyết trình, đàm phán, giao tiếp và quan hệ công chúng; kỹ năng quản lý thời gian. Những kỹ năng này kết hợp với các kiến thức quản trị có hiệu quả sẽ có tác động quyết định đối với các doanh nhân, các nghiệp chủ và các nhà quản lý doanh nghiệp qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cần lưu ý về khả năng ngoại ngữ (mặc dù có thể sử dụng người phiên dịch nhưng cần có ngoại ngữ tối thiểu và nên hạn chế sự phụ thuộc hoàn toàn vào phiên dịch). Đây là một điểm yếu rất đáng chú ý đối với các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là bộ phận DNVVN thì vấn đề này còn rất yếu.

Thời gian gần đây, đã có nhiều doanh nghiệp có những bước tiến lớn nhưng nếu so với trình độ quốc tế thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn tụt hậu một khoảng cách đáng kể. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế thì chính bản thân các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp trước hết cần tăng cường khả năng đó. Đây là đòn bẩy nhân tố con người trong các tổ chức kinh doanh. Điều này các doanh nhân và nhà quản lý trong các doanh nghiệp có thể thực hiện được (bằng chứng là đã có những doanh nhân Việt Nam thành công trên thương trường quốc tế). Tuy nhiên, con số này còn quá ít và phát triển còn mang tính tự phát. Đã đến lúc ở cấp vĩ mô cần quan tâm có tính hệ thống nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Những kinh nghiệm và sự thành công của Hàn Quốc và Đài Loan trong lĩnh vực này rất đáng được chúng ta nghiên cứu và chọn lọc.

Thứ hai,phải xây dựng chiến lược cạnh tranh dài hạn:

Sự hạn chế về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh là một trong những nguyên nhân của sự thất bại trong phát triển dài hạn. Có doanh nghiệp hoạt động rất thành công ở quy mô nhỏ nhưng thất bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng quy mô. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng khả năng phát triển một cách bền vững, nếu không sẽ khó trụ vững trong cuộc cạnh tranh. Những trường hợp doanh nghiệp phát triển rầm rộ trong một vài năm, sau đó suy yếu nhanh, thậm chí tan vỡ là các minh chứng.

Về mặt chiến lược cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam còn rất yếu về liên kết nhóm, đặc biệt là trên phạm vi quốc gia. Vừa cạnh tranh vừa hợp tác, hợp tác để tăng cường khả năng cạnh tranh;  nếu các doanh nghiệp chỉ thuần tuý chú ý đến mặt cạnh tranh mà bỏ qua mặt hợp tác thì rất sai lầm. Phải biết hợp tác đi đôi với cạnh tranh để giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thứ ba:tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và sự đa dạng của dịch vụ cung cấp:

Khi nguồn các sản phẩm dịch vụ ngày càng nhiều, thì chất lượng sản phẩm dịch vụ càng được khách hàng quan tâm. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ phải tương xứng với số tiền khách hàng đã bỏ ra. Vì vậy, doanh nghiệp cần phân bổ lại cơ cấu các sản phẩm của mình ở nhiều phân khúc, tập trung sản phẩm vào nhu cầu hiện tại của khách hàng, lấy số lượng bù đắp lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp phải đáp ứng được những tiêu chuẩn trong nước và quốc tế.

Ngoài ra, doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một hình tượng tốt đẹp đối với công chúng. Muốn có hình tượng công chúng tốt đẹp, trước hết phải chiếm được lòng tin của khách hàng bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ mình cung cấp, các hoạt động kinh doanh tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi… Đây cũng là phương thức để quảng bá thương hiệu của chính doanh nghiệp. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ rất thuận lợi cho doanh nghiệp.

Thứ tư: Xây dựng bộ phận thông tin thị trường thường xuyên theo dõi cập nhật đầy đủ diễn biến của thị trườngvà chú trọng công tác tuyển dụng nhân sự

 Đây là một công việc không phải là doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện tốt được trong khi thông tin thị trường vẫn còn có sự thiếu minh bạch như hiện nay. Khi chưa có cơ quan nhà nước nào đứng ra tổ chức thu thập phân tích các thông tin thị trường, thì doanh nghiệp nên lựa chọn đơn vị có uy tín (các đơn vị chuyên về cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu và tư vấn chuyên nghiệp) để thoả thuận cung cấp những thông tin phù hợp và cần thiết cho doanh nghiệp của mình.

Đồng thời, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương, thưởng hợp lý để giữ ổn định lượng nhân viên của mình, nhất là những nhân viên giỏi. Ngoài ra, doanh nghiệp nên kết hợp với các trường đại học cao đẳng để tuyển dụng những sinh viên giỏi sắp ra trường nhằm xây dựng cho mình đội ngũ nhân viên trẻ, năng động có thể đảm nhiệm các vị trí chuyên môn quan trọng sau này.

Thứ năm, Nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật

Doanh nghiệp cần xây dựng bộ phận cán bộ pháp chế ngay trong đơn vị để tư vấn pháp lý cho các cấp quản lý và kiêm công tác ngăn ngừa xử lý rủi ro khủng hoảng. Điều này chưa được nhiều doanh nghiệp chú ý do thói quen hoặc do chưa nhận thức được vai trò của tổ chức pháp chế trong doanh nghiệp dẫn đến tình trạng gặp nhiều rủi ro do không có bộ phận tư vấn, thẩm định về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh như hợp đồng, xuất nhập khẩu, ….

4.3. Về phía các hiệp hội doanh nghiệp

 Cần phải có sự tăng cường vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ và các tổ chức chuyên môn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.

So với nhiều nước có nền kinh tế phát triển, vai trò của các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ… ở nước ta trong việc giao lưu, xúc tiến thương mại, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn còn hạn chế, mờ nhạt cả về số lượng, quy mô và nội dung hoạt động. Vì vậy cần chú trọng hơn nữa việc tổ chức các buổi trao đổi sinh hoạt, giới thiệu kinh nghiệm trong nước và quốc tế, cập nhật thông tin về ngành và về hoạt động kinh doanh. Những hoạt động đó tuy đơn giản nhưng rất bổ ích, tạo điều kiện phát triển và hoàn thiện năng lực của các giám đốc và cán bộ quản lý kinh doanh.

Hiện nay, cả nước có khoảng 300 hiệp hội doanh nghiệp. Ngoài vai trò đại diện cho tiếng nói của doanh nghiệp và xúc tiến thương mại, đầu tư, các hiệp hội doanh nghiệp còn có vai trò quan trọng trong lĩnh vực quan hệ lao động, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trong điều kiện hội nhập, các biện pháp hành chính của Chính phủ sẽ khó có thể thực hiện trực tiếp nhằm yểm trợ cho doanh nghiệp. Những biện pháp hỗ trợ gián tiếp thông qua hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là việc liên kết tự nguyện của doanh nghiệp sẽ là cơ chế phù hợp với các quy định của WTO. Do vậy cần thiết phải sắp xếp và củng cố hệ thống các hiệp hội doanh nghiệp trên cả nước, bảo đảm hiệp hội doanh nghiệp hoạt động một cách thiết thực và hiệu quả để nâng cao năng lực của các hiệp hội doanh nghiệp trong công tác hỗ trợ cho doanh nghiệp.

Nếu thực hiện được đồng bộ những giải pháp trên thì trong năm 2009, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, đồng thời vượt qua được những khó khăn, thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 để lại.

Phạm Thị Lệ Hằng   - Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp

1900.0191