Bàn về khái niệm vật chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chứng cứ là một chế định rất quan trọng trong tố tụng nói chung và Tố tụng hình sự nói riêng. Trong tố tụng hình sự, để có cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như bảo vệ tốt quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của tổ chức, công dân (kể cả bản thân người phạm tội) tránh được oan, sai, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải thu thập, kiểm tra, bảo quản, đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và hợp pháp.
* Điều 64 BLTTHS năm 2003 (sau đây gọi là BLTTHS 2003) quy định về chứng cứ như sau:
“1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2.Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
c) Kết luận giám định
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”.
Từ quy định trên đây cho ta thấy, vật chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng trong vụ án hình sự. Thông qua vật chứng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền có thể rút ra được các chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như các tình tiết khác, giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
1.Cơ sở lý luận của vật chứng
– Hoạt động phạm tội là một loại hoạt động vật chất, khi người phạm tội thực hiện một tội phạm thì họ thông qua các động tác của cơ thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến đối tượng này hay đối tượng khác thuộc thế giới khách quan và các hoạt động đó được ghi lại, lưu giữ thông qua những điều kiện, môi trường khác nhau thuộc thế giới khách quan và ta gọi chung nhất là những “dấu vết” của tội phạm, chúng bao gồm những “dấu vết” vật chất và “dấu vết” phi vật chất.
– Vấn đề đặt ra là vì sao ta nhận thức được vụ án và vì sao hoạt động phạm tội lại để lại “dấu vết” trong thế giới khách quan?
– Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cho chúng ta thấy rằng: Thế giới vật chất có thể thuộc tính phản ánh hay nói cách khác, mọi sự vật hiện tượng thuộc thế giới vật chất trong thế giới khách quan đều có thuộc tính phản ánh, đó là sự “tự” phản ánh hoặc phản ánh thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ như: Hành vi trộm cắp làm thay đổi tình trạng bình thường của tài sản (tài sản đang từ sự chiếm hữu của chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp sang sự chiếm hữu bất hợp pháp của người phạm tội); hay dùng dao chém bị thương nạn nhân thì để lại vết cắt trên cơ thể nạn nhân v.v… Nói tóm lại, thông qua sự phản ánh của các sự vật, hiện tượng liên quan mà chúng ta biết được diễn biến hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án; chính những sự vật hiện tượng mang tính hữu hình, cụ thể, phản ánh các tình tiết của tội phạm đó trong tố tụng hình sự gọi là “vật chứng”.
– Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cũng cho chúng ta biết thêm rằng quy luật biện chứng của nhận thức chân lý là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn; hay nói cách khác, con đường biện chứng của nhận thức là từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều, từ cảm tính đến lý tính. Trong việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nhận thức về một vụ án không phải một sớm một chiều, ngay tức khắc chúng ta có thể nắm bắt được bản chất của vụ án mà chúng ta phải trải qua nhiều quá trình khác nhau từ những tin tức, tài liệu, đồ vật được thu thập, kiểm tra, đánh giá trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi tố đến xét xử.
– Như vậy, cơ sở lý luận của vật chứng là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về thuộc tính phản ánh của thế giới vật chất và Quy luật biện chứng của nhận thức chân lý khách quan.
2.Ý nghĩa của vật chứng trong tố tụng hình sự
– Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS thì vật chứng được coi là một nguồn chứng cứ, có nghĩa rằng, vật chứng là một trong những hình thức tồn tại của chứng cứ; một phần chứng cứ chứng minh cho các tình tiết của vụ án được rút ra từ vật chứng. Chẳng hạn như dao dùng để chém nạn nhân, nếu ra thu giữ được thì nó là vật mà thông qua đó, ta xác định được công cụ phạm tội là dao chứ không phải là cái gì khác; một chiếc dép thu được tại hiện trường vụ cướp tài sản nó sẽ trở thành chứng cứ chứng minh cho sự hiện diện của chủ nhân chiếc dép tại nơi xảy ra vụ án v.v… Như vậy, vật chứng là vật mà thông qua nó chúng ta có thể chứng minh được tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án; trong một số trường hợp nó có ý nghĩa quyết định cho việc điều tra, khám phá, xử lý tội phạm và người phạm tội.
3.Nội hàm và ngoại diên khái niệm vật chứng
– Điều 74 BLTTHS định nghĩa về vật chứng như sau: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật chất có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
– Theo Điều 74 BLTTHS thì, vật chứng trước hết phải là “vật” chứ không thể là cái gì khác. Dưới góc độ ngôn ngữ học thì khái niệm “vật” được hiểu là “cái có hình khối và có thể nhận biết được”.
– Thông qua định nghĩa về “vật” ta có thể hiểu cái có hình khối tức là có kích thước (dài, rộng, cao) và có trọng lượng mà con người có thể nhận biết được thông qua các giác quan như mắt nhìn, tay sờ, cầm, nắm; thông qua các giác quan đó chúng ta cảm giác được nặng, nhẹ, to, nhỏ.
– Như vậy, các sự vật, hiện tượng mang tính hữu hình cụ thể đều thuộc khái niệm “vật” và có thể là vật chứng trong vụ án hình sự.
– Dưới góc độ logic, định nghĩa về vật chứng tại Điều 74 BLTTHS chưa hoàn chỉnh về cấu trúc, bởi lẽ: Định nghĩa vật chứng đó chỉ đề cập đến ngoại diên của khái niệm vật chứng, chứ chưa đề cập đến nội hàm của nó, nội hàm khái niệm vật chứng phải đi từ nội hàm của khái niệm vật và ý nghĩa của nó trong tố tụng hình sự. Theo chúng tôi, nội hàm của khái niệm vật chứng phải được hiểu là: Vật có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
– Chính vì vậy, Điều 74 BLTTHS cần bổ sung thêm nội hàm của vật chứng và như vậy Điều 74 luật này cần được sửa đổi bổ sung như sau: “Vật chứng là vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.”
– Vật chứng bao gồm: Vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và các vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
3.1.Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội
– Khái niệm công cụ, phương tiện phạm tội đã được đề cập nhiều trong Bộ luật Hình sự, BLTTHS nhưng chưa có một điều luật cụ thể nào đưa ra định nghĩa pháp lý về nó. Hiện nay, trong các giáo trình Luật hình sự của các cơ sở đào tạo ngành Luật đều có định nghĩa chung về công cụ, phương tiện phạm tội như sau:
– Công cụ phạm tội là đối tượng vật chất mà người phạm tội sử dụng để tác động lên đối tượng tác động qua đó gây thiệt hại cho khách thể; phương tiện phạm tội là dạng cụ thể của công cụ phạm tội.
– Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, việc đánh giá một vật có phải là công cụ, phương tiện phạm tội hay không nói chung không khó. Chúng ta thông qua mối liên hệ giữa người phạm tội với đối tượng tác động cũng như phương pháp thực hiện hành vi phạm tội là có thể nhận biết được một vật có phải công cụ, phương tiện phạm tội hay không.
– Vấn đề đặt ra là, loại tội phạm nào thì có công cụ, phương tiện phạm tội, loại tội phạm nào thì không? Câu hỏi này hiện nay vẫn chưa có sự giải đáp của cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên, theo các sách báo pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự thì vấn đề công cụ, phương tiện phạm tội chỉ đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý; còn đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý thì không có công cụ, phương tiện phạm tội, mà có chăng chỉ là “vật mang dấu vết tội phạm” hoặc “vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Chẳng hạn như trong vụ án đua motô trái phép thì chiếc motô là phương tiện phạm tội, nhưng cũng với chiếc motô đó, nếu vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, thì bị xử lý theo Điều 202 BLHS thì được gọi là phương tiện gây tai nạn (thông dụng) và thuộc khái niệm “vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội” hoặc “vật mang dấu vết tội phạm”.
3.2.Vật mang dấu vết tội phạm
– Dấu vết tội phạm là những phản ánh vật chất do tội phạm gây ra và được lưu giữ trên các đồ vật khác nhau. Dấu vết tội phạm có thể tồn tại ở các dạng thể: rắn, lỏng, khí, mùi vị, âm thanh, ánh sáng, từ trường, điện trường. tuy nhiên, không phải bất kì hành vi phạm tội nào cũng đều gây ra dấu vết trên các vật thể khác nhau; có những “dấu vết” tuy nó tồn tại trong môi trường xung quanh nhưng chúng không thể để lại dấu vết trên các vật. Ví dụ như từ trường, điện trường, mùi vị, ánh sáng. Để thu được những dấu vết này thì phải sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật và sau đó được chuyển thành chứng cứ pháp lý thông qua các phương tiện khác. Ví dụ như máy đo nồng độ cồn trong máu người gây tai nạn giao thông, dụng cụ hút và lưu giữ mùi vị tại hiện trường vụ án, máy ghi âm ghi cường độ âm thanh, máy đo cường độ ánh sáng… Tuy những máy móc này lưu giữ được các dấu vết của tội phạm nhưng chúng ta không thể coi là vật chứng được. trong trường hợp này để đảm bảo kết quả thu lượm dấu vết tại hiện trường có giá trị chứng minh thì Cơ quan điều tra phải chuyển hóa thành các chứng cứ thông qua các dạng biên bản như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ mẫu vật, biên bản xác minh, biên bản giám định; các loại biên bản này tuy có giá trị chứng minh nhưng cũng không được coi là vật chứng.
– Như vậy, vật mang dấu vết tội phạm chỉ bao gồm những vật hữu hình, cụ thể mà trên nó lưu lại được các dấu vết tội phạm mà chúng ta có thể quan sát, đánh giá, phân tích, kiểm tra. Ví dụ như con dao dính máu, vật mang vết trầy xước do vi phạm với các vật cứng khác; phương tiện gây tai nạn giao thông có dấu vết va chạm dính sơn; chiếc lý thủy tinh có dấu vân tay của người bị nghi thực hiện tội phạm….
3.3.Vật là đối tượng của tội phạm
– Đây là đồ vật, tài sản bị hành vi phạm tội tác động tới gây nên sự biến đổi tương đối về vị trí, hính dáng, kích thước, tính chất… Ví dụ như chiếc ti vi trong vụ trộm cắp là đối tượng của hành vi trộm cắp; hàng cấm là đối tượng của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán hàng cấm; tài sản bị hư hỏng là đối tượng của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; hàng hóa trong tội buôn lậu…Vật là đối tượng của tội phạm cũng có thể là vật mang dấu vết của tội phạm; tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể và vai trò chứng minh của vật chứng đó để chúng ta xác định cho chính xác loại vật chứng. Ví dụ, do thù hằn cá nhân, kẻ phạm tội vào nhà nạn nhân đập phá tài sản và bỏ trốn, trong đó có chiếc xe moto và để lưu lại dấu vân tay trên yên xe; trong trường hợp này ta nên xác định chiếc xe moto là vật mang dấu vết tội phạm chính xác hơn là vật là đối tượng của tội phạm.
3.4.Tiền bạc, vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội
3.4.1.Tiền bạc có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội
– Tiền bạc là một loại tài sản, là phương tiện thanh toán, tiền bạc có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ; các loại kim khí quý, đá quý, ngân phiếu, cổ phiếu, tuy có giá trị thanh toán, trao đổi trên thị trường, tuy có giá trị trao đổi nhưng không thuộc khái niệm tiền bạc mà có thể thuộc khái niệm vật là phương tiện phạm tội, vật là đối tượng của tội phạm. Ví dụ: vàng, bạc, đá quý, ngân phiếu, cổ phiếu, công trái dùng vào việc hối lộ thì thuộc khái niệm phương tiện phạm tội hoặc thuộc khái niệm vật là đối tượng của tội phạm.
– Đối với tiền bạc, nếu đã được xác định là đối tượng của tội phạm hoặc là công cụ, phương tiện, thì tuy nó có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội nhưng không thuộc khái niệm này (tiền bạc có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội). Ví dụ: tiền bạc dùng đưa hối lộ là phương tiện phạm tội, tiền bạc trộm cắp được là đối tượng của tội phạm… nếu tiền bạc dùng vào việc đánh bạc bị thu giữ tại chiếu bạc, tièn bạc dùng để in ấn tài liệu phản động, mua ma túy thì là tiền bạc có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
3.4.2.Vật chứng là vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, ngoài những vật, tiền bạc là vật chứng đã nêu trên thì còn rất nhiều loại vật khác cũng liên quan đến vụ án và có giá trị chứng minh cho tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án, nhà làm luật không thể mô tả hết các trường hợp thực tế và trong điều luật và chỉ nêu lên một cách mang tính klhái quát là “vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
- Vật chứng minh cho tội phạm là vật qua đó chúng ta có thể rút ra được chứng cứ chứng minh có tình tiết này hay tình tiết khác thuộc bốn yếu tố cấu thành tội phạm (không thuộc các trường hợp từ 3.2.1 đến 3.3 đã nếu trên)
– Ví dụ: chiếc áo của nạn nhân bị đâm thủng trong tội cố ý gây thương tích, xe moto bị hư hỏng trong vụ tai nạn giao thông…
– Trong thực tiễn thì loại vật chứng này rất phong phú, đa dạng và nhiều, do vậy, tùy thuộc vào từng loại án, mối liên hệ giữa vật chứng và đối tượng chứng minh cũng như giá trị chứng minh của nó để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra, dánh giá, sử dụng cho phù hợp. Không nên thu thâp và sử dụng quá nhiều vật chứng thuộc loại này gây nên sự trùng lặp, rối rắm trong việc đánh giá, sử dụng cũng như việc xử lý vật chứng. Vật chứng minh cho tội phạm bao gồm vật chứng minh cho cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ cũng như các tình tiết khác có ý nghĩ tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Chúng ta không nên hiểu phiến diện vật khác có giá trị chứng minh tội phạm chỉ bao gồm những vật chứng có giá trị chứng minh cho tình tiết tăng nặng không thôi. Ví dụ: Trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo khoản 1 Điều 202 BLHS, thì giấy phép lái xe chính là vật chứng để chứng minh cho việc người phạm tội có đủ điều kiện để lái xe (trường hợp buộc phải có giấy phép lái xe) và điều này đã loại trừ tình tiết tăng nặng định khung (không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định) cho người phạm tội theo khoản 2 Điều 202 của BLHS.
- Vật khác có giá trị chứng minh người phạm tội
– Theo nghĩa rộng, thì khái niệm tội phạm đã bao hàm khái niệm người phạm tội, chính vì vậy, vật chứng là vật khác có giá trị chứng minh cho tội phạm đã bao hàm khái niệm vật chứng có giá trị chứng minh người phạm tội; tuy nhiên, để nhấn mạnh yếu tố chủ thể của tội phạm và gần với cách hiểu thông thường nên nhà làm luật đã tách cụm từ “người phạm tội” độc lập với tội phạm.
– Vật có giá trị chứng minh người phạm tội là những vật chứng minh cho tư cách chủ thể tội phạm của một người phạm tội, hay nói cách khác, những vật có giá trị xác định đúng một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội cũng như những đặc điểm khác thuộc nhân thân người đó. Ví dụ: chiếc dép của người phạm tội (xác minh được) thu được tại hiện trường vụ giết người; dấu vân tay thu được tại hiện trường (trên chiếc cốc) của vụ trộm cắp tài sản do người phạm tội để lại (xác minh được)…
– Trên đây là một số vấn đề về nhận thức của cá nhân về nội dung khái niệm vật chứng trong khái niệm vật chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, kính mong các đồng nghiệp cùng quan tâm bàn luận để làm sáng tỏ vấn đề.
TS Nguyễn Văn Cường – Thẩm phán – Phó Viện trưởng Viện khoa học xét xử TANDTC.
Theo : Tạp chí Tòa án nhân dân số 02 (Tháng 1/2010)
Bài luận liên quan:
- Vai trò của ngành tâm lý học
- Khái niệm, đặc điểm của chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực thẩm mỹ
- Định nghĩa bình luận về hành vi Mớm cung
- Bàn về khái niệm vật chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
- Giấy Ủy quyền nhận tiền thai sản
- Chức năng của văn bản quản lý nhà nước
- Phân tích tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính
- Khái niệm Hiến pháp
- Phương pháp điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp Việt Nam
- Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930
- Phân tích quy định cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu trực hệ
- Chuẩn mực “đạo đức” và “xã hội” là gì và mối liên hệ của chúng trong cuộc sống hiện nay ở Việt Nam như thế nào
- Nêu, phân tích những ví dụ cụ thể gắn với vấn đề phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật