Phân tích các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ về quyền sao chép tác phẩm và giới hạn quyền sao chép tác phẩm. Đánh giá thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế hành vi xâm phạm quyền sao chép trong thực tiễn?
1. Phân tích các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ về quyền sao chép tác phẩm:
Quyền sao chép tác phẩm thuộc nội dung quyền tài sản quyền tác giả. Quyền tác giả được quy định tại khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Chủ sở hữu quyền tác giả có những quyền tài sản nhất định đối với tác phẩm thuộc sở hữu của mình, trong đó có quyền sao chép tác phẩm. Quyền sao chép tác phẩm được quy định tại điểm c khoản 1 điều 20 Luật sở hữu trí tuệ.
Quyền sao chép tác phẩm thuộc nội dung quyền tải sản của quyền tác giả. Quyền tác giả được quy định tại khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Chủ sở hữu quyền tác giả có những quyền tài sản nhất định đối với tác phẩm thuộc sở hữu của mình, trong đó có quyền sao chép tác phẩm. Quyền sao chép tác phẩm được quy định tại điểm c khoản 1 điều 20 Luật sở hữu trí tuệ.
Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Tác phẩm có còn thể thể hiện bằng các ký hiệu thay cho chữ viết như chữ nổi cho người khiếm thị, ký hiệu tốc ký và các ký hiệu tương tự thay cho chữ viết mà các đối tượng tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau. (Điều 7 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan)
Sao chép tác phẩm là việc tái tạo lại hình thức của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hay tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử. Ví dụ: Quán photocopy có hành vi photo giáo trình, tài liệu thành rất nhiều bản để bán là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Quán photocopy đã sao chép tác phẩm với mục đích thương mại, mà không xin phép hay trả tiền thù lao cho tác giả, gây phương hại đến các quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Pháp luật Việt Nam định nghĩa quyền sao chép tác phẩm là “quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử”
Đối với tác phẩm chưa được công bố thì sao chép tác phẩm là độc quyền thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Trong trường hợp này chỉ có chủ sở hữu quyền tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép mới được sao chép tác phẩm. Đối với tác phẩm đã được công bố, các tổ chức, cá nhân khác muốn sao chép thì phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả, quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật SHTT.
2. Giới hạn quyền sao chép tác phẩm:
Giới hạn quyền sở hữu trí tuệ là việc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc thực hiện quyền không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan. Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại pháp luật sở hữu trí tuệ, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp.
Nhằm hài hòa lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng, pháp luật quy định các trường hợp hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả. Việc giới hạn quyền quy định trong những trường hợp nhất định, cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao; sử dụng tác phẩm sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Để áp dụng được giới hạn quyền sao chép tác phẩm điều kiện quan trọng nhất trong quy định pháp luật Việt Nam là việc tác phẩm đó đã được công bố. Điều này cũng đã minh chứng cho việc dù pháp luật đặt ra giới hạn quyền nhưng ở một góc độ nào đó, pháp luật vẫn đang cố gắng bảo vệ quyền lợi cho người sáng tạo hoặc đầu tư tạo ra tác phẩm. Điều này cũng đang hỗ trợ cho tác giả đem đến tác phẩm thật sự có giá trị cho xã hội, như vậy chỉ khi nào tác phẩm được công bố thì các giới hạn quyền mới được đặt ra. Tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm và công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.
Pháp luật có những quy định trong việc hạn chế quyền của chủ sở hữu trong vấn đề sao chép tác phẩm. Các tổ chức, cá nhân có quyền sao chép tác phẩm mà không phải xin phép và không phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả hoặc cho chủ sở hữu quyền tác giả trong hai trường hợp sau:
+) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (quy định tại điểm a, khoản 1, điều 25 Luật SHTT).
+) Sao chép một tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. (quy định tại điểm đ, khoản 1, điều 25 Luật SHTT)
Để giải thích rõ hơn hai trường hợp trên, Nghị định 22/2018/NĐ – CP đã giải thích rõ:
+) Tự sao chép một bản áp dụng đối với các trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại (Quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định của Chính phủ số 22/2018/NĐ-CP).
+) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số (Quy định tại khoản 2 Điều 22 Nghị định của Chính phủ số 22/2018/NĐ-CP). Theo đó, trong trường hợp này, thư viện chỉ được phép sao chép không quá một bản và không được phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.
Như vậy, chỉ khi “sao chép một bản” đối với trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy hoặc lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu như ở hai trường hợp trên, mà không nhằm mục đích thương mại thì mới không cần xin phép tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Còn lại những trường hợp khác nếu không xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao đều là hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, tổ chức, cá nhân sao chép tác phẩm quy định tại khoản 1 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm, quy định tại khoản 2 điều 25, Luật SHTT. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, hoặc không thuộc các trường hợp ngoại lên trên sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tùy tính chất, mức độ hành vi xâm phạm mà các chủ thể thực hiện hành vi có thể sẽ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, dân sự, hình sự theo quy định của pháp luật.
* Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật:
+) Thứ nhất, trong giới hạn quyền tác giả nói chung được ghi nhận tại Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ đều hướng đến điều kiện tiên quyết đó là chỉ áp dụng cho tác phẩm đã công bố. Tuy nhiên vẫn có một số tác phẩm được loại trừ không áp dụng như tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh. Như vậy quan trọng nhất là việc xác định tác phẩm như thế nào thì ở trạng thái đã được công bố? và ai sẽ là người xem xét và quyết định nó. Giả thuyết đặt ra nếu có tranh chấp phát sinh thì sẽ được kiểm chứng thế nào? Chính vì vậy xem xét thực tế và quy định pháp luật có thể thấy rằng việc xác định theo như quy định hiện nay cũng chưa được rõ ràng và có vẻ nằm trong khuôn khổ khá hẹp về các quyền sẽ trao cho người sử dụng. Theo tác giả, có thể ghi nhận việc công bố tác phẩm thông qua việc thể hiện tác phẩm trước công chúng và người sử dụng có thể tiếp cận một cách công khai và hợp pháp theo ý của tác giả chẳng hạn như việc tác giả phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý hoặc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc hoặc đọc trước công chúng một tác phẩm văn học hay phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật và cả việc trưng bày tác phẩm tạo hình, xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. Về điều này một số quốc gia trên thế giới cũng thừa nhận. Bên cạnh đó, việc ghi nhận mở rộng phạm vi “công bố” sẽ tạo kênh pháp lý và căn cứ rõ ràng để xác định hành vi sử dụng ấy có xâm phạm quyền sao chép hay trích dẫn hay không.
+) Thứ hai, đối với trường hợp sao chép tác phẩm đã công bố nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lưu trữ thư viện như hiện nay quy định là được một bản thì có vẻ máy móc và hạn hẹp quyền lợi của người sử dụng trong trường hợp này. Có vẻ như nhà làm luật cảm thấy không kiểm soát được việc sử dụng trong môi trường giáo dục này sẽ như thế nào, họ sử dụng ra sao việc sao chép để làm gì… Tuy nhiên, một điều dĩ nhiên là hầu như họ là những thầy cô giáo, học trò, họ cần học tập, cần nghiên cứu và bản thân họ rất cần tiếp cận những sáng tạo mới, những tri thức mới để có thể trang bị kiến thức được tốt hơn. Như vậy, trong môi trường giáo dục thì chỉ cần không vì mục đích thương mại sẽ được sao chép tác phẩm đã công bố theo mức độ cần thiết. Đối với số lượng không nên giới hạn một bản sao trong trường hợp này. Tuy nhiên chúng ta có thể rào cản bằng việc sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. Điều đáng nói thêm là, việc ghi nhận theo Điều 25, khoản 1, điểm a chỉ giới hạn trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, vậy thì còn học tập cũng nên được thừa nhận trong trường hợp này, bởi trong môi trường giáo dục, việc học tập là một hoạt động thường xuyên và cần thiết. Thế nên về mặt từ ngữ, điểm a khoản 1 Điều 25 Luật SHTT, sau khi sửa đổi, bổ sung được viết thành: “Tự sao chép một bản nhằm mục đích học tập, nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”. Điều này cũng tương thích với quy định trong Luật Bản quyền của Hoa Kỳ, mà theo đó cũng cho phép giáo viên hoặc học sinh sao chép một phần nhỏ của các tác phẩm để minh họa cho bài học. Bên cạnh đó, đối với việc lưu trữ thư viện thì số lượng bản sao không nên giới hạn là một, chỉ cần nhằm mục đích phục vụ cho công chúng và lưu trữ.
3. Đánh giá thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm:
Thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm hiện nay đang là một vấn đề hết sức nhức nhối:
+) Hiện nay, mặc dù pháp luật Việt Nam đã có các bộ luật để bảo vệ quyền lợi cho tác giả, tuy nhiên hiện tượng các cá nhân, tập thể vô tình hoặc cố ý lợi dụng những kẽ hở trong luật để chuộc lợi vẫn diễn ra phổ biến.Trong lĩnh vực in ấn, xuất bản, dễ nhận thấy nhất là hiện tượng photocopy các ấn phẩm, tác phẩm, sách in một cách tràn lan mà không được sự đồng ý của tác giả, rồi sử dụng vào mục đích kinh doanh. Từ trước đến nay, chúng ta hầu như chỉ để tâm đến người sao chép tác phẩm để sử dụng mà quên đi rằng chính những cửa hàng kinh doanh dịch vụ photocopy cũng là những người vi phạm bản quyền tác giả một cách chuyên nghiệp.
+) Bên cạnh đó, xâm phạm quyền sao chép tác phẩm còn được thấy trong việc đạo văn, sao chép luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, của các học sinh, sinh viên và mọi người sử dụng internet. Hiện nay, phần lớn học sinh có thể hoàn thành bài tập của mình trong thời gian ngắn, nhờ vào việc học sinh có thể lên mạng, sao chép các tác phẩm có săn trên mạng. Thực trạng này diễn ra rất phổ biến và sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
+) Nhìn trên bình diện cả nước, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng xâm phạm quyền tác giả tràn lan mà trong đó hành vi xâm phạm phổ biến nhất là sao chép tác phẩm bằng công nghệ số (sao chép số) và sử dụng trái phép tác phẩm trên mạng. Tham khảo số liệu thống kê của liên minh quốc tế về sở hữu trí tuệ, mức độ vi phạm tác phẩm ngôn ngữ (sách, báo) và băng đĩa ở nước ta chiếm tới 85-90% và Việt Nam được xếp vào một trong những nước có mức vi phạm cao nhất thế giới.
+) Tình trạng xâm phạm quyền tác giả trực tuyến gây ra một số hệ lụy khiến các tác giả, nhà sản xuất, nhà xuất bản và những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật nói chung phải chịu thiệt thòi, vì không được đền đáp xứng đáng. Nền công nghiệp văn hóa, giải trí của chúng ta theo đó cũng bị kìm hãm. Mặt khác, những vi phạm này sẽ khiến Việt Nam mất đi nhiều cơ hội hợp tác với các đối tác nước ngoài để mang đến những sản phẩm tinh thần giá trị cho người dân.
4. Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế hành vi xâm phạm quyền sao chép trong thực tiễn:
– Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền sao chéo, đặc biệt là hành vi xâm phạm quyền sao chép trí tuệ trong môi trường kỹ thuật số;
– Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sao chép cần thiết phải thực hiện rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của hệ thống tổ chức và cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiện có để làm căn cứ xây dựng và thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy. Việc sắp xếp, phân công lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần đảm bảo theo hướng thu gọn đầu mối, phù hợp với tính chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ, xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về sở hữu trí tuệ. Việc thu gọn đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần được thực hiện đồng thời với việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan và tăng cường chất lượng hoạt động trên cơ sở thực hiện chuyên môn hóa về tổ chức và nhân sự trong các cơ quan này;
– Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và với các cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ quyền sao chép và rộng hơn là quyền sở hữu trí tuệ; phối hợp nghiên cứu về việc tăng cường vai trò của tòa án trong giải quyết các vụ việc về sở hữu trí tuệ;
– Tích cực và chủ động phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về sao chép tác phẩm; nâng cao hiệu quả công tác điều tra các vụ án hình sự về sở hữu trí tuệ;
– Khuyến khích giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ bằng hình thức trọng tài, hòa giải;
– Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ về quyền sao chép và các quyền sở hữu cho đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;
– Tăng cường giáo dục, phổ biến pháp luật cho học sinh, sinh viên về lĩnh vực sở hữu trí tuệ và quyền sao chép; giúp học sinh, sinh viên hiểu biết pháp luật và tuân thủ pháp luật;
– Mở rộng xã hội hóa đi đôi với nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp về quyền sao chép; thúc đẩy phát triển dịch vụ giám định sở hữu trí tuệ và dịch vụ tư vấn pháp luật về bảo vệ quyền sao chép và các quyền sở hữu trí tuệ.
Các bài luận liên quan:
- Vận dụng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản để nêu ra các giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
- Hiểu thế nào là trích dẫn hợp lý tác phẩm nhằm mục đích bình luận và nghiên cứu?
- Đặc trưng của ngôn từ người Việt, ngôn từ của giới trẻ hiện nay
- Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về công ty hợp danh – Ưu điểm, nhược điểm của công ty hợp danh so với các loại hình doanh nghiệp khác
- Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội
- Phân tích các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu theo quy định của BLDS năm 2015 – Sưu tầm 01 bản án của Tòa án về vấn đề này và nêu quan điểm cá nhân về nội dung được giải quyết
- Trách nhiệm củа Nhà nước đối với quyền cоn người, quyền công dân trоng bối cảnh đại dịch Cоvid-19 ở Việt Nаm
- Giải quyết tranh chấp về giao hàng theo Hợp đồng
- Bán phá giá – Vận dụng các quy định và thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
- Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự năm 2014