Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lý luận và thực tiễn.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo cũng được Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. 

1. Tổng quan về Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Tại Việt Nam, ngay từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 và đặc biệt là trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, Hiến pháp 1946, nhà nước đã đặt ra những căn cứ pháp lý ban đầu để đảm bảo quyền bình đẳng của các tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả mọi người. Hiện nay, mọi người đều có quyền theo hoặc không theo tôn giáo nào; có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; có quyền vào tu tại các cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà tu hành, chức sắc có quyền thực hiện nghi lễ, truyền đạo, giảng đạo tại các địa điểm hợp pháp. Nhà nước đảm bảo để không ai được xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, mọi người cần có ý thức thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với pháp luật; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác đồng thời chống lại những phần tử lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng nhằm mục đích chống phá.

Nhà nước là chủ thể quản lý các tôn giáo, trong đó việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn là vấn đề trọng tâm. Trong quá trình hoàn thiện mô hình Nhà nước, hệ thống pháp luật về Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng từng bước được hoàn thiện, phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế và các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia. 

Dựa trên những quan điểm cơ bản của học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, trong đó đều khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật

Việt Nam đã không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là việc thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành đạo luật này. Trong quá trình quản lý Nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng, chúng ta luôn thực hiện nhất quán theo chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.  Đó là chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương, điều lệ đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Nhờ đó, chúng ta đã tạo được sự đồng thuận giữa chính quyền và các tổ chức tôn giáo vì lợi ích chung của toàn xã hội trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, thực hiện đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”.

Tuy nhiên, trước sự phát triển ngày một lớn và phức tạp của hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng, đã đặt ra những vấn đề mới với công tác quản lý Nhà nước. Những vấn đề về âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch; mâu thuẫn trong nội bộ tôn giáo cũng như mâu thuẫn giữa các tôn giáo với nhau; những hành vi hoạt động tôn giáo trái pháp luật… yêu cầu một hệ thống pháp luật về tôn giáo tín ngưỡng hoàn thiện và một cơ chế quản lý chặt chẽ hơn nữa. Chính vì thế, việc bảo vệ và phát triển quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trở thành vấn đề lớn thu hút sự chú ý của các cấp, các ngành và cộng đồng quốc tế; được Đảng và Nhà nước ưu tiên thể hiện qua nhiều chính sách.

Để bảo vệ quyền và phát triển quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước cần phải quản lý hoạt động tôn giáo bằng cách đảm bảo cho các hoạt động này phát triển phù hợp với các hoạt động chung của xã hội. Bộ máy Nhà nước phải nhận thức đầy đủ và toàn diện về ý nghĩa, tầm quan trọng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; ý thức được sự cần thiết phải tôn trọng và đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được pháp luật quy định.

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên các lĩnh vực khác nhau, cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Vừa để tự làm rõ ràng, khúc chiết một số vấn đề phức tạp, vừa đưa ra những định hướng giải quyết những yêu cầu mới phát sinh; đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Với những lý do nêu trên, em chọn đề tài “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật hiện hành – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu khoa học.

1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”[1]. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân luôn được Nhà nước đảm bảo. Bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo cũng được tăng cường. Một phần nguyên nhân vì trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quan tâm và coi trọng. Có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị quý báu, làm sáng tỏ vấn đề lý luận và tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước, điển hình như:

Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam – Lý luận và thực tiễn của PGS.TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008, 447 trang. Sách đã hệ thống lại những nét chủ yếu về lý luận và thực tiễn trong công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, lịch sử nhận thức của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và những phác họa đầu tiên về tiến trình đó, chủ yếu là giai đoạn từ 1945 đến năm 2005; quá trình Đảng, Nhà nước ta xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách tôn giáo qua các giai đoạn lịch sử, đáp ứng đổi mới về tôn giáo, từ đó đặt ra một số vấn đề gợi mở làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.

Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học (Tập 1), tập thể tác giả, chủ biên: GS.TS. Võ Khánh Vinh, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 2001, 384 trang. Sách đề cập đến những vấn đề lý luận quyền con người về dân sự và chính trị; phân tích quyền con người về dân sự và chính trị trong các Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, do vậy cuốn sách là nguồn tư liệu quý giúp em nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.

Tư tưởng Việt Nam về quyền con người, của GS.TS. Phạm Hồng Thái (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2016, 610 trang. Sách đề cập đến vấn đề nghiên cứu về quyền con người, tư tưởng về quyền con người của Việt Nam qua các thời kỳ. Cuốn sách giúp em hiểu rõ những vấn đề lý luận trong quá trình thực hiện đề tài.

Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền củaPGS.TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2014, 567 trang; sách là một công trình khoa học có giá trị, chứa đựng những kiến giải sâu sắc, có tính mới về lý luận; giúp em thấy được tính mới về lý luận, tổng kết sâu sắc về thực tiễn đời sống tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Nhà nước tôn giáo luật pháp của PGS.TS Đỗ Quang Hưng, Nxb Chính trị quốc gia, 2014, 454 trang; sách đã đưa ra một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay, nhân tố mới để thực hiện cải cách hành chính trong quản lý hoạt động tôn giáo.

– Luận án tiến sĩ Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay, của tác giả Nguyễn Ngọc Huấn, Luận án đã nghiên cứu tiến trình xây dựng, hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận chung về tôn giáo và luật pháp, những yếu tố tác động đến luật pháp tôn giáo ở Việt Nam và hướng tới việc đưa ra một khung lý thuyết về luật pháp về tôn giáo xung quanh yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, nêu được những thành tựu và hạn chế, chỉ ra được nguyên nhân trong công tác xây dựng và hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở nước ta hiện nay. Luận án giúp em thấy được nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo, cách hành xử của chính quyền và sự vận hành của tổ chức tôn giáo, vai trò của Nhà nước đối với tôn giáo.

Giá trị di sản của đa dạng tôn giáo ở Việt Nam và những đóng góp đối với xã hội Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội, 2015. Đây là tập kỷ yếu của hai cuộc hội thảo quốc tế, được tổ chức bởi Ban Tôn giáo Chính phủ hợp tác với phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, với chủ đề “Giá trị di sản của đa dạng tôn giáo ở Việt Nam và những đóng góp đối với xã hội Việt Nam”, được tổ chức ngày 25, 26/9/2013 và chủ đề “Tôn giáo và đời sống tôn giáo ở Việt Nam – Chia sẻ kinh nghiệm châu Âu và Việt Nam trong việc đảm bảo tự do tôn giáo” được tổ chức ngày 26, 27/9/2014.

Ngoài ra, còn có một số công trình khác như: Tôn giáo ở Mỹ của Nghiêm Văn Thái, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3/2011: Dấu mốc và kết quả hội nhập quốc tế về tôn giáo ở Việt Nam của Bùi Quang Nhượng, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 9/2015; Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động tín đồ tôn giáo của Đoàn Thị Thu Hà, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 7/2016: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo của Tạ Văn Sang và Nguyễn Thị Hằng…

Bên cạnh đó còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau quanh vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trên đã có đóng góp rất lớn trong việc hoàn thiện những nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lịch sử hình thành và phát triển của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng như những quy định của pháp luật hiện hành và nêu ra những định hướng hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay… Những công trình nghiên cứu đó đã cung cấp cho em những kiến thức quan trọng, cơ sở lý luận và thực tiễn để em tiếp tục hoàn thiện bài nghiên cứu của mình. 

1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của bài báo cáo

1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Làm sáng tỏ vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và cơ chế bảo vệ của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo 

1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Dựa trên những mục tiêu trên, bài nghiên cứu giải quyết những nhiệm vụ sau:

  • Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.
  • Thứ hai, làm rõ sự cần thiết khách quan và ý nghĩa của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội tại Việt Nam
  • Thứ ba, phân tích quy định của pháp luật để làm rõ nội dung, thực trạng về vấn đề thực hiện và đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; trên cơ sở đó rút ra những ưu điểm, nhược điểm và chỉ ra nguyên nhân của thành tựu và hạn chế.
  • Thứ tư, đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của báo cáo

1.4.1. Đối tượng nghiên cứu

Báo cáo tập trung vào các vấn đề: Các quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật; Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 

1.4.2. Phạm vi nghiên cứu

  • Phạm vi về không gian: Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi một bài báo cáo nghiên cứu khoa học không thể làm rõ hết được những góc độ đó. Bài nghiên cứu khoa học đề tài “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật hiện hành – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của em chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến khái niệm, đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nội dung của các quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực trạng của pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
  • Phạm vi về thời gian: Bài báo cáo tập trung vào nghiên cứu pháp luật và việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến thời điểm hiện tại. Đặc biệt tập trung làm rõ vấn đề này trong giai đoạn 2018 – 2020. Bên cạnh đó đề tài còn đề cập đến những quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong lịch sử pháp luật Việt Nam.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu khoa học “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật hiện hành – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” được sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: 

  • Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu: gồm dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
  • Phương pháp phân tích và chứng minh để làm rõ các quy định pháp luật của Việt Nam và quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 
  • Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa pháp luật cũ và pháp luật hiện hành; giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước khác về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
  • Phương pháp thống kê, chỉ tra các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về những vấn đề có liên quan đến nội dung bài nghiên cứu.
  • Phương pháp tổng hợp, tóm lược lại những luận điểm được đưa ra trong bài nghiên cứu và đúc rút ra điểm tích cực và hạn chế.

1.6. Kết cấu của bài nghiên cứu

Ngoài phần danh mục tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu gồm có 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.

Chuong 2: Một số vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và thực tiễn bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở việt nam hiện nay.

Chương 4: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở việt nam hiện nay.

2. Một số vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo

2.1. Khái quát chung về tín ngưỡng tôn giáo

2.1.1. Khái niệm tín ngưỡng

Theo Từ điển Tiếng Việt, tín ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó. Theo từ điển Hán – Việt, tín ngưỡng được định nghĩa: “Lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”[2] . Tương tự, trong quyển Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân (chủ biên), tín ngưỡng nghĩa là: “Tin tưởng vào một tôn giáo: Tự do tín ngưỡng”[3]. Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016, Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.[4] 

Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tín ngưỡng. Có người đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo, có người lại xếp tín ngưỡng nằm dưới tôn giáo trong bậc thang phát triển. Theo GS Đặng Nghiêm Vạn, thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người nước ngoài có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, lelieve, croyance)  hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief, believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo[5]. 

Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và trên phương diện của bài nghiên cứu, có thể định nghĩa khái niệm “tín ngưỡng” một cách khái quát như sau: Tín ngưỡng là niềm tin, là sự tôn thờ của con người vào một hiện tượng, sự vật được cho là có năng lực siêu nhiên, có sức mạnh ảnh hưởng đến đời sống hiện thực.

2.1.2. Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo, theo cách hiểu phổ thông nhất đã được chấp nhận ở Việt Nam hiện nay, là một hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trần thế cũng như ở thế giới bên kia.[6]

Theo góc độ tâm lý học, tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo.

Nhìn từ quan điểm triết học của C.Mác, tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần.Và trên tư tưởng đó, Ph.Ăngghen đưa ra quan điểm, tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày.

Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức[7].

2.1.3. Mối quan hệ của tín ngưỡng và tôn giáo

Tín ngưỡng đôi khi cũng được hiểu là tôn giáo. Nhưng điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, không có những quy định chặt chẽ. Tín ngưỡng thường không có tổ chức hoặc có tổ chức ở dạng sơ khai nhất. Tín ngưỡng cũng không có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Khi nói đến tín ngưỡng thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một cộng đồng người. Tín ngưỡng trong những điều kiện nhất định đôi khi có thể chuyển hóa thành tôn giáo.

Những người có tôn giáo và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian đều tin vào những điều mà tôn giáo đó hoặc loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy. Cả tín ngưỡng và tôn giáo đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng và đôi khi so với các yếu tố tác động, ảnh hưởng, điều chỉnh hành vi của con người khác, tín ngưỡng và tôn giáo còn có sức tác động mạnh hơn rất nhiều. Chính vì vậy, trong lịch sử phát triển chung của xã hội loài người, việc sử dụng tôn giáo, tín ngưỡng để thực hiện các mục tiêu chính trị là hiện tượng tương đối phổ biến. 

2.1.4. Vai trò của tín ngưỡng và tôn giáo trong đời sống xã hội

Tín ngưỡng, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo của thế giới khách quan, nhưng luôn có kỳ vọng đáp ứng nhu cầu của con người về nhận thức thế giới: tự nhiên, xã hội và chính con người.

Tín ngưỡng, tôn giáo giúp con người tìm thấy những giải đáp về sự bất bình đẳng, bất lực, nỗi lo lắng, bất hạnh trong xã hội; làm nguôi ngoai đi những khổ đau và cho con người một niềm tin hư ảo. Nhờ có nó, con người tìm được sự an ủi và hy vọng vượt qua, hạn chế được những hành vi gây hại cho xã hội.

Tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức, hướng con người đến lối sống tốt đời đẹp đạo, điều chỉnh hành vi của mỗi cá thể trong đời sống cộng đồng.

Tín ngưỡng, tôn giáo có khả năng liên kết trong cộng đồng. Kết nối những người có chung một niềm tin, ràng buộc bởi giáo lý, giáo luật. Sự liên kết tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những liên kết chặt chẽ và lâu bền nhất.

2.2. Khái quát chung về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

2.2.1. Khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Khái niệm “tự do” trong triết học được xem là một trong những giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Theo nhà triết học Locke (John Locke 1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào”. Như vậy tự do ở đây chỉ là khả năng của con người. Còn nhà triết học cận đại Hegel (G.W Friedrich Hegel 1770-1831) thì cho rằng“Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Như vậy, ở đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở hành động. Tuy nhiên, theo Hegel, muốn có tự do thì trước hết phải nhận thức được cái tất yếu, cái quy luật. Người ta nhận thức được quy luật đến đâu thì hành động tự do được bảo đảm đến đấy. Vi phạm quy luật, tất yếu sẽ bị mất tự do. 

Tự do cũng không phải là tự do tuyệt đối bởi “tự do của một người giới hạn ở chỗ chạm tới tự do của người khác” và cũng có những giá trị khác, cũng cao quý không kém tự do, đó là ý thức về trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, với dân tộc và gia đình. Do đó không có quyền tự do nào được đứng trên hoặc chà đạp lên đạo đức xã hội, quyền và lợi ích của người khác, lợi ích của quốc gia, của dân tộc… 

   Pháp luật quốc gia và quốc tế đều có những quy định về các quyền cơ bản của con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng đồng thời các quyền tự do này cũng phải chịu một số hạn chế của pháp luật. Trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” 1966, các quyền tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; về tự do ngôn luận, báo chí; về tự do cư trú, đi lại; Về tự do lập hội, hội họp… được ghi nhận. Tuy vậy, Công ước này cũng khẳng định là những quyền này có thể bị hạn chế “để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền và tự do của người khác”.  

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, bao gồm cả tôn giáo nội sinh và ngoại nhập. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước ghi nhận ngay trong Hiến pháp đầu tiên (1946) và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình lập pháp của nước ta qua bốn bản Hiến pháp tiếp theo, với những quy định về sau càng có xu hướng chi tiết hơn. Cụ thể:

Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.[8]

Hiến pháp năm 1959 quy định: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một  tôn giáo nào.[9]

Hiến pháp năm 1980 quy định: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.[10]

Hiến pháp năm 1992 quy định: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.[11]

Hiến pháp 2013 quy định: 1. Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.[12]

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hiểu là một trong những quyền cơ bản của con người và của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

2.2.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Tại Việt Nam, trong xu thế hội nhập và đổi mới, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, những quyền tự do căn bản của con người như tự do truyền đạo, tự do thể hiện niềm tin tôn giáo, tự do trong các vấn đề kinh tế, an ninh, chính trị… đều có liên quan đến nội dung điều chỉnh của pháp luật về tôn giáo.

Thứ hai, các hoạt động tôn giáo phải được thực hiện trên nguyên tắc quy định của Nhà nước: không được lợi dụng hoạt động tôn giáo để tiến hành các hoạt động chống lại đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước; làm phương hại đến an ninh quốc gia; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và tuyên truyền mê tín dị đoan. Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động tôn giáo, nhưng các hoạt động tôn giáo bắt buộc phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.

Thứ ba, pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo có điều chỉnh và tôn trọng các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam có yếu tố nước ngoài, trên cơ sở phù hợp với luật pháp trong nước và hợp tác quốc tế. 

Thứ tư, đặc điểm về đối tượng quản lý. Đối tượng của quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo gồm tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các tổ chức tôn giáo. Mỗi đối tượng có những đặc điểm riêng, đặt ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý.

2.2.3. Ý nghĩa của việc ghi nhận bằng pháp luật đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được Nhà nước ghi nhận. Điều này chứng tỏ những tiến bộ vượt bậc và những cố gắng rất lớn của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong bối cảnh Việt Nam còn đang trong quá trình xây dựng một Nhà nước pháp quyền và trong khi tình hình kinh tế, xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn.

Trong những bản Hiến pháp sau này, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được chú trọng làm rõ, thể hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. Cho thấy những nỗ lực của Nhà nước trong việc nội luật hóa các công ước quốc tế, đưa hệ thống luật Việt Nam trở nên tiệm cận với pháp luật quốc tế.

Cùng với việc khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trong Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam đã thể chế hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua những văn bản quy phạm pháp luật khác. Đó là một bước tiến triển mới trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. 

Trong xu thế đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo là đặc biệt cần thiết. Thông qua việc ghi nhận bằng pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước đã khẳng định vai trò luôn tạo điều kiện tối ưu cho các tôn giáo thực hành đức tin của mình không bị hạn chế, tuy nhiên phải trong khuôn khổ pháp luật; đảm bảo cao nhất về pháp lý, tạo điều kiện cho mọi người dân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. 

2.2.4. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật một số nước trên thế giới

2.2.4.1. Pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại một số nước châu Âu

Tại Pháp, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 quy định: “Mọi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền […] không ai có thể gây phiền hà do có ý kiến kể cả tín ngưỡng này khác, miễn là không có biểu hiện gây rối trật tự công cộng do pháp luật quy định”

Năm 1905, Luật Phân ly ra đời, khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa đảm bảo quyền tự do lương tâm. Nền Cộng hòa bảo đảm quyền tự do thờ phượng ban hành sau đây được đặt trong lợi ích của trật tự công cộng 21”[13]. Và “Nền Cộng hòa không công nhận, trả lương hoặc trợ cấp cho bất kỳ tôn giáo nào 22”[14], đã tìm ra mô hình thỏa ước khẳng định ba nguyên tắc cơ bản: (1) tách giáo hội ra khỏi Nhà nước, (2) tách nhà trường – hệ thống giáo dục ra khỏi giáo dục nhà thờ và (3) coi tôn giáo là việc cá nhân của mỗi người. 

Những năm gần đây, nước Pháp nổi tiếng bởi những đạo luật cấm phụ nữ Hồi giáo đeo mạng khi xuất hiện trong không gian công cộng, kể cả công sở, trường học,… Điều này đã gây nên những xung đột xã hội lớn khi Hồi giáo trở thành tôn giáo lớn thứ hai của nước Pháp với hơn 5 triệu tín đồ.[15]

Tại Bỉ, Hiến pháp năm 1970 quy định rằng: “tự do tôn giáo, thực hành công khai và tự do thể hiện ý kiến của một người trên tất cả các vấn đề được đảm bảo, nhưng hành vi phạm tội khi tự do này có thể bị trừng phạt”

Hiến pháp Ý năm 1948 ghi nhận: “bất cứ ai cũng có quyền tự do tuyên xưng niềm tin tôn giáo của họ dưới mọi hình thức, với tư cách cá nhân hoặc với những người khác, và để thúc đẩy họ và tôn vinh nghi thức ở nơi công cộng hoặc riêng tư, miễn là chúng không gây hại cho đạo đức xã hội”.

2.2.4.2. Pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại một số nước châu Á

Tại châu Á, một số nước trong khu vực có những quy định về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo mang nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Cụ thể:

Tại trung Quốc, Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, điều 36 quy định: “Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân không được cưỡng chế công dân đi theo tôn giáo hoặc từ bỏ tôn giáo, không được phân biệt, kỳ thị người có tôn giáo và người không tôn giáo. Nhà nước bảo đảm hoạt động tôn giáo bình thường. Nghiêm cấm bất kỳ người nào lợi dụng hoạt động tôn giáo để phá hoại trật tự xã hội, tổn hại đến sức khoẻ của công dân, làm ảnh hưởng các chế độ giáo dục của Nhà nước. Đoàn thể tôn giáo và sự nghiệp tôn giáo không chịu sự chi phối của thế lực bên ngoài.”. 

Còn tại Nhật Bản, Hiến pháp năm 1946, Điều 14 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Không có sự phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, nam nữ, tình trạng xã hội hay lai lịch bản thân trong tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế…”;

Điều 20 quy định: “Mọi công dân đều có quyền tự do tín ngưỡng. Không một tổ chức tôn giáo nào có thể nhận được đặc ân của Chính phủ hay được sử dụng quyền chính trị. Không ai bị bắt buộc tham gia các hoạt động, lễ nghi của các tổ chức tôn giáo. Chính phủ và các cơ quan Nhà nước không theo nền giáo dục mang tính tôn giáo và cũng không có các hành vi tôn giáo”;

Điều 89 quy định: “Không một tài sản quốc gia hay ngân sách nào được dùng để thiết lập, duy trì hiệp hội tôn giáo, cơ quan từ thiện hay giáo dục công ích mà không được chính quyền quản lý”.

2.2.4.3. Pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại một số nước khu vực Đông Nam Á

Tại Indonesia, Nhà nước (1) chỉ công nhận 6 tôn giáo là: Phật giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Tin lành, Công giáo, Khổng giáo và (2) chính sách “Buộc mỗi công dân phải có một tôn giáo” đã gây ra nhiều tranh cãi về vấn đề tư cách công dân đối với những người không thuộc 6 tôn giáo nói trên và những người không có tôn giáo.

Tại Malaysia, Nhà nước có “tôn giáo chủ lưu” với Islam giáo chiếm đến 58%, được Nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp: “Islam giáo là tôn giáo của Malaysia; những tôn giáo khác có thể được thực hành trong hòa bình và hòa thuận với nhau trong bất cứ vùng lãnh thổ nào thuộc Malaysia”. Với một đất nước hầu như 100% dân số có tôn giáo, việc có “tôn giáo chủ lưu” mà vẫn hài hòa giữa các tôn giáo với nhau, được thế giới xem như một mô hình nhà nước thế tục thành công. 

2.3. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

2.3.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Xét trên bình diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật thì pháp luật điều chỉnh về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tổng hợp những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh, xác lập quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cá nhân, tổ chức cũng như mối quan hệ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo với Nhà nước và các cá nhân, tổ chức tôn giáo với nhau.

Những năm gần đây, trong hoạt động của các tôn giáo ở nước ta có nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh, đồng thời các tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam cũng có một số tác động nhất định. Những điều trên đòi hỏi một hệ thống pháp luật điều chỉnh đầy đủ, toàn diện và nhất quán nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân..

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 và Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 ra đời là một nỗ lực của Nhà nước trong việc tập trung, sắp xếp và quy định chi tiết hơn các chế định, quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo vốn được phân tán trong từng luật theo lĩnh vực riêng. Đó là một bước tiến trong quá trình xây dựng pháp luật để có thể đưa tất cả các quy phạm điều chỉnh liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo vào một luật chuyên ngành. 

2.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

2.3.2.1. Thời phong kiến

Việt Nam đã phải trải qua thời kỳ Bắc thuộc hơn một ngàn năm, kéo dài từ năm 179 trước Công nguyên, khi Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc, cho đến năm 938 khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán. Trong thời kỳ này, bên cạnh sự xung đột giữa hai xu hướng hán Hóa và chống Hán hóa, Phật giáo từ Ấn Độ đã được du nhập theo đường biển, sau đó là Nho giáo và Đạo giáo (Lão giáo) đến từ Trung Hoa.

Thời kỳ Lý, Trần và Hồ, Phật giáo được phát triển thịnh trị, thậm chí còn được xem như quốc giáo của giai đoạn này. Do ảnh hưởng của tinh thần từ bi Phật giáo, pháp luật thời Lý được nhận định là có nhiều nét đặc sắc, bao gồm việc “tôn trọng nhân quyền”.

Đến thời kỳ triều Hậu Lê, nhà Lê lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống để trị nước, tự do tôn giáo của các chức sắc và tín đồ Phật giáo bị giới hạn đáng kể. Bộ Quốc triều Hình luật  ra đời cũng có những quy định cụ thể về quản lý các tăng sĩ, nhà tu hành tôn giáo. Tín ngưỡng, phong tục thờ cúng tổ tiên được thể chế hóa bằng luật.

Đến nhà Tây Sơn, có sự du nhập của Ki-tô giáo, lan truyền nhanh và tạo ra ảnh hưởng nhất định với thể chế nhà nước. Nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn đã nhiều lần đàn áp tôn giáo này.

2.3.2.2. Thời Pháp thuộc

Thời kỳ này, Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp, chính vì thế, tôn giáo Việt Nam được điều chỉnh theo chính sách của Pháp. Mặc dù Pháp là nước có những đóng góp tiêu biểu trong luật pháp về tôn giáo, nhưng chính sách và ứng xử với các tôn giáo của Pháp ở Việt Nam lại có nhiều nghịch lý.

Phần lớn các toàn quyền Đông Dương vì lợi ích của chế độ thuộc địa mà đề cao và ưu ái Công giáo, hạn chế các tôn giáo khác, đặc biệt là những tôn giáo bấy giờ đang tồn tại ở Việt Nam như Phật giáo và Nho giáo. 

Ý định của người Pháp trong việc ưu đãi đạo Thiên chúa không phải vì mục đích tôn giáo mà vì mục đích chính trị. Pháp dùng tôn giáo để đàn áp, tiêu diệt tầng lớp Nho sĩ. 

Cũng chính vì chính sách ưu đãi Công giáo của Pháp thời kỳ này khiến cho Công giáo trở thành một tôn giáo bị bài xích trong xã hội nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ, “Bất cứ một người An Nam theo đạo Công giáo đều bị những người đồng hương coi như kẻ phản bội Tổ quốc”.[16]

Tại chính quyền ở Sài Gòn, trong những năm đầu tiên, dấu ấn của các chính sách về tôn giáo của Vua Bảo Đại còn rất rõ. Càng về sau, chính sách tôn giáo của Ngô Đình Diệm, đặc biệt thời Nguyễn Văn Thiệu có sự “điều chỉnh” theo hướng coi Công giáo là quốc đạo một cách rõ nét.

2.3.2.3. Thời kỳ đổi mới

Trong những năm đầu của thời kỳ này (1945 – 1975), Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đối diện với vấn đề tôn giáo trực tiếp và gay gắt đó là: Xóa bỏ cách nhìn định kiến, kỳ thị đối với tôn giáo mà điển hình là Công giáo và đảm bảo nhu cầu tôn giáo chính đáng của đồng bào theo đạo; đoàn kết các tôn giáo và chống lợi dụng tôn giáo. 

Trước tình hình đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, tín ngưỡng, tôn giáo trở thành một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng đưa ra chủ trương xây dựng Mặt trận thống nhất nhằm tập hợp đồng bào có tôn giáo toàn dân đánh giặc. Chính phủ ban hành một loạt văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Trong những năm tiếp theo, tình hình tôn giáo chuyển biến theo hướng phức tạp cùng với sự quay lại của thực dân Pháp và sự xâm lược của đế quốc Mĩ với âm mưu kích động lợi dụng tôn giáo để chống phá nước ta. Trước kẻ thù nguy hiểm, trước tình hình đất nước khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương trước sau như một là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, thực hiện Lương Giáo đoàn kết để cùng nhau chống Mĩ, cứu nước và thống nhất Tổ quốc.

Từ năm 1975 đến 1990, đây là giai đoạn trước Đổi mới tôn giáo. Ngay sau khi đất nước thống nhất, Ban Bí thư có số 09/CT/TW ngày 18/5/1977 về chủ trương công tác với các tôn giáo miền Nam, cũng như Nghị quyết số 297-CP ngày 11/11/1977 về “Một số chính sách đối với tôn giáo” của Hội đồng Bộ Trưởng đã góp phần ổn định tôn giáo.

Giai đoạn này, Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam ra đời. Đây là một dấu son của lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam thời hiện đại, đánh dấu một thời kỳ mới trong quan hệ Nhà nước với giáo hội theo đường hướng “Sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc cho đồng bào”.

Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam 1981 cũng là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Đại hội đã thống nhất thành lập một tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” với đường hướng “Đạo pháp – Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”.

Từ những năm 1990 đến nay là giai đoạn nước ta bắt đầu có những đổi mới trong nhận thức về tôn giáo. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI về “tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển về nhận thức. Nghị quyết này có hai luận điểm mang “tính đột phá” là: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới.

Từ 1991 đến nay, chúng ta đã có những bước tiến dài trong việc thể chế hóa  các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cho đến hôm nay, chúng ta luôn thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực quản lý tôn giáo, bằng việc ban hành hàng loạt Quy định, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và sau này là Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể kể đến như: Nghị định số 69-HĐBT ngày 21-3-1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về các hoạt động tôn giáo; Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW ngày 12-3-2003 về công tác tôn giáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Pháp lênh Tín ngưỡng, tôn giáo 2005 Nghị định hướng dẫn; Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 và Nghị định hướng dẫn…

Hàng loạt các văn bản pháp lý ấy đã thể hiện sinh động sự đổi mới về chính sách tôn giáo.

2.3.3. Nguồn của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền con người có mối quan hệ mật thiết, mối quan hệ này đã được chuẩn hóa thành những nguyên tắc trong hệ thống pháp luật quốc tế, trở thành nguồn của pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cụ thể là: Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, Công ước quốc tế về quyền của người bản xứ, Hiến pháp 2013,…

Điều 18 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1984 khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo; quyền này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo và niềm tin, cũng như tự do biểu hiện tôn giáo hay niềm tin của mình, một mình hay cùng chung nhau, ở nơi công cộng hay nơi riêng tư, bằng thuyết giảng, tục lệ, thờ cúng và làm các nghi lễ”, Công ước quốc tế về quyền Dân sự – Chính trị đã tái khẳng định nguyên tắc mọi người đều có quyền tự do, bình đẳng hay không theo tín ngưỡng, tôn giáo (Khoản 1, Điều 18), không bị ép buộc làm tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng (Khoản 2 Điều 18).

Việt Nam là một quốc gia thành viên của nhiều công ước quốc tế quan trọng về quyền con người, đáng chú ý là hai Công ước quốc tế năm 1966 (Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế – xã hội – văn hóa). Việt Nam đã nội luật hóa những quy định những quy liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vào trong pháp luật quốc gia. Cụ thể, Hiến pháp 2013 quy định: 1. Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật; Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 khẳng định mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào, Nhà nước đảm bảo cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi người. Ngoài ra quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như: Nghị đinh 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo; Quyết định 219/QĐ-TTg về phê duyệt đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo; Thông tư 15/2019/BTTTT hướng dẫn thực hiện quyết định 219/QĐ-TTg về phê duyệt đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo; Quyết định 32/2014/QĐ-TTg quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ nội vụ; Quyết định 119/QĐ-BNV năm 2018 công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ nội vụ…. và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

2.3.4. Nội dung pháp luật điều chỉnh về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Bên cạnh các quy định trong Hiến pháp và trong nhiều bộ luật luật quan trọng khác của Nhà nước như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Dân sự Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Đất đai,… quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt, cụ thể là Luật tự do tín ngưỡng tôn giáo 2016:

– Đối với hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc: Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các lễ hội, lễ nghi và học tập giáo lý tôn giáo; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đúng pháp luật.

– Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo sẽ bị đình chỉ nếu: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.

– Đối với tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo: Các tổ chức tôn giáo có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, có hiến chương, điều lệ, Đạo quy phù hợp với pháp luật, có cơ cấu tổ chức hợp lý và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về hai mặt đạo và đời, được xem xét và để được phép hoạt động. 

– Đối với các hoạt động về tổ chức: Các tổ chức tôn giáo hợp pháp về tổ chức, được tiến hành các hoạt động như tổ chức đại hội, hội nghị, mở trường đào tạo chức sắc, phong chức, phong phẩm, bầu cử, suy cử, bổ nhiệm và thuyên chuyển chức sắc,….

– Đối với việc tôn giáo tham gia các hoạt động kinh tế – xã hội: Các chức sắc, nhà tu hành được hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội như mọi công dân. Việc tổ chức lao động, sản xuất làm dịch vụ để tự túc của chức sắc, nhà tu hành theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước được khuyến khích. Các hoạt động từ thiện nhân đạo được khuyến khích.

– Đối với tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo: Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Đất có các công trình tôn giáo, tín ngưỡng sử dụng được phép hoạt động, sử dụng lâu dài. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo được quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

– Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có cơ sở là di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh được bảo đảm bình thường như các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo khác; việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp thực hiện theo pháp luật.

– Việc xuất bản, in, phát hành kinh, sách, báo, tạp chí,… về tín ngưỡng, tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện theo pháp luật.

– Đối với hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc: Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khỏe người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS; hỗ trợ phát triển cơ sở giáo dục mầm non, tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo. Chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân được khuyến khích tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo.

– Đối với hoạt động quốc tế của tôn giáo: Nhà nước tôn trọng mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo. Quan hệ quốc tế của các tôn giáo phải tôn trọng chủ quyền, pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thông lệ quốc tế. Những quan hệ với tư cách cá nhân được thực hiện bình thường như mọi công dân. Những quan hệ với tư cách thành viên hoặc có mối quan hệ về cơ cấu tổ chức của các tôn giáo quốc tế thì phải được sự chấp thuận của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

– Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế.

2.4. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật hiện hành

2.4.1. Bảo đảm về chính trị

Nhà nước là trung tâm của quyền lực và là trụ cột của hệ thống chính trị, những đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng chỉ trở thành phương tiện quản lý của Nhà nước khi được thể chế hóa thành pháp luật. Pháp luật nói chung và pháp luật về tôn giáo nói riêng chính là sự cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm bằng thể chế chính trị của nền dân chủ. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân, Đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật. Việc thể chế hóa chính sách, đường lối của Đảng về tôn giáo là phương tiện để Nhà nước quản lý về tôn giáo, đồng thời là phương tiện để tổ chức, cá nhân tôn giáo được hoạt động bình đẳng, ổn định và được pháp luật bảo hộ; mặt khác đây cũng là cơ sở để Đảng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà nước theo Điều 8 Hiến pháp 2013: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Hoạt động kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức Nhà nước cũng là điều kiện bảo đảm về chính trị cho việc thực hiện các quyền công dân nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng.

2.4.2. Bảo đảm về kinh tế – văn hóa – xã hội

2.4.2.1. Bảo đảm về kinh tế

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ sở phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo. Nhà nước ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trò chủ thể về kinh tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất, đảm bảo cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, tương thích với thông lệ của các nước;

Trên cơ sở đó, Nhà nước bảo đảm cho những lợi ích từ phát triển kinh tế đất nước sẽ không bị một bộ phận thiểu số trong xã hội chiếm dụng, mà sẽ được chia sẻ công bằng; bảo đảm rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm chứ không quá thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng miền, giữa các thành phần, giới tính, tôn giáo,… trong xã hội.

Phát triển kinh tế đất nước không ngoài mục đích nào khác là để bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc sống sung túc, hạnh phúc. Khi một nền kinh tế phát triển, ổn định, đời sống nhân dân sẽ có nhiều thuận lợi, việc đó sẽ ảnh hưởng tới việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đối với nước ta, bằng đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta ngày càng tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền được pháp luật thừa nhận. Đó chính là những tiền đề, điều kiện bảo đảm về kinh tế để mọi công dân thực hiện tốt các quyền công dân của mình trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

2.4.2.2. Bảo đảm về văn hóa

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải giải quyết hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa.

Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa thành pháp luật, chính sách của Nhà nước là một phương thức quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa. Một nền văn hóa phát triển sẽ góp phần bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

2.4.2.3 Bảo đảm về xã hội

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Xã hội ta là xã hội vì con người và con người luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội…”. Bảo đảm về xã hội chính là bảo đảm cho từng cá nhân trong xã hội về đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo công bằng và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Những chính sách của Đảng về bảo đảm xã hội mà mục tiêu là con người được Nhà nước thể chế hóa qua hệ thống các văn bản pháp luật. Quy định về quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng đã góp phần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nhằm thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên đất nước Việt Nam và thực hiện tốt các quyền con người do pháp luật quốc tế quy định.

2.4.3. Bảo đảm về pháp lý

Các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được Hiến pháp trao cho tất cả mọi người được làm gì để đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của mình và đòi hỏi Nhà nước, xã hội phải làm gì để bảo đảm cho họ được hưởng thực sự và sử dụng đúng đắn các quyền ấy. Trong toàn bộ những bảo đảm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà Nhà nước và xã hội xây dựng thì bảo đảm về pháp lý là quan trọng nhất, nó phản ánh bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Bảo đảm pháp lý quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xem là toàn bộ những tiền đề, điều kiện, môi trường pháp lý thuận lợi do Nhà nước, xã hội tạo ra trên cơ sở pháp luật để công dân được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách thực sự, đầy đủ và sử dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách đúng đắn trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý bảo đảm cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo gồm pháp luật hình thức và pháp luật nội dung, do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở nhu cầu khách quan của xã hội Việt Nam hoặc các công ước quốc tế mà Nhà nước Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Pháp luật hình thức quy định trình tự, thủ tục, hình thức thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân, Nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và tổ chức chính trị xã hội trong lĩnh vực xã hội; còn pháp luật nội dung xác lập các quyền và nghĩa vụ ấy.

Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, bên cạnh việc quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, còn phải quy định trách nhiệm giải quyết, nghiêm cấm các hành vi cản trở thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

2.4.4. Cơ chế bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền con người, là những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp và luật. Đảm bảo thực hiện các quyền hiến định và luật định, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng được đảm bảo thực hiện trong thực tiễn cuộc sống là thước đo của nền dân chủ, văn mình, của tự do và tiến bộ xã hội; qua đó thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước. 

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề phức tạp và được xem xét dưới nhiều góc độ. Do đó để thúc đẩy và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cần có những nguyên tắc, cách thức và cơ chế khác nhau.  Có rất nhiều yếu tố, bộ phận tham gia vào quá trình hình thành và hoạt động của các cơ chế bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là các yếu tố của hệ thống chính trị như Đảng, Nhà nước, các tỏ chức chính trị – xã hội… ngoài ra còn có các hiệp hội, tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, hiệp hôi Asean… Trong phạm vi quốc gia, các chủ thể bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân chủ yếu là các yếu tố của hệ thống chính trị. Các cơ quan này, thông qua các nguyên tắc, cách thức, quy tắc hoạt động, chính sách pháp luật của mình để bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc xây dựng cơ quan chuyên trách để quản lý, bảo vệ quyền. Nghiên cứu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay chủ yếu tập trung và làm rõ, tăng cường hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Chính vì thế, việc xây dựng cơ chế bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là làm rõ sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ của ba nhánh quyền lực Nhà nước với bốn cơ quan kiến tạo thành bộ máy Nhà nước ta. Cụ thể là:

2.4.4.1. Quốc hội

Với chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật. Quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng là một trong những nội dung quan trọng cấu thành Hiến pháp và luật. Việc xây dựng Hiến pháp và luật có vai trò trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là cơ sở ban đầu, tiền đề cho các hoạt động đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tiếp theo của các cơ quan khác trong bộ máy Nhà nước và của chính cá nhân, công dân.

Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, Quốc hội còn thực hiện quyền quyết định các vấn đề quan trọng khác trong đó có chính sách về tôn giáo. 

Việc tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong việc đảm bảo quyền chính là dân chủ hóa hoạt động của Quốc hội, làm cho Quốc hội hoạt động có hiệu quả hơn nữa trong bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.

2.4.4.2. Chính phủ

Là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc đảm bảo, thúc đẩy và phát triển quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các cơ quan bộ máy Nhà nước phải tinh gọn, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; mà một trong những vấn đề chính có tính chất quyết định đến toàn bộ hiệu lực và hiệu quả của cơ quan công quyền đó là đội ngũ cán bộ, công chức.

Xây dựng bộ máy cán bộ, công chức hành chính tận tâm phục vụ nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Muốn vậy, phải đặt ra yêu cầu trách nhiệm công vụ. Công chức Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, ngược lại công dân có quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, điều này mở ra chân trời rộng lớn cho quyền tự do dân chủ nói chung và quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân nói riêng.

Bên cạnh đó, xây dựng trách nhiệm công vụ đối với cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước là xây dựng tính chịu trách nhiệm đối với những hành vi sai trái xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân với những chế tài thích đáng, góp phần giảm thiểu nguy cơ xâm hại quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. 

2.4.4.3. Cơ quan tư pháp

Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền, một khi quyền con người, quyền của cá nhân, công dân bị xâm phạm, cách tốt nhất và hiệu quả nhất là cá nhân, công dân viện dẫn đến Tòa án. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền nhân danh Nhà nước và nhân danh công lý để phán xét hành vi vi phạm pháp luật, xác định mức độ lỗi, mức độ thiệt hại và các biện pháp khắc phục hiệu quả. Qua đó hành vi phạm tội phải bị trừng trị; quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân, tập thể được khôi phục và bảo vệ. Song song với đó, Viện kiểm sát góp phần bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật.

Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền và các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được quy định trong Hiến pháp, pháp luật về quyền con người và các Công ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết, phê chuẩn. Vai trò của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ công lý và quyền con người mang tính chất quyết định. 

3. Thực trạng quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và thực tiễn bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

3.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo

Nhằm thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta đối với lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh các Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12/03/2003 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “về công tác tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng được quy định trong các bản Hiến pháp: 

Hiến pháp năm 1946: Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

Hiến pháp năm 1959: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một  tôn giáo nào.

Hiến pháp năm 1980: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Hiến pháp năm 1992: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Hiến pháp 2013: 1. Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Luật tôn giáo, tín ngưỡng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 18 tháng 11 năm 2016, được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 1 tháng 12 năm 2016 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2018. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Luật tôn giáo, tín ngưỡng đã thể chế hóa đường lối, chủ trương về chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay, tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này.

Cùng với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Việt Nam cũng đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về tự do tôn giáo. Ðoàn kết tôn giáo đang trở thành nền tảng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Chúng ta đã không ngừng nỗ lực để hoàn thiện các hệ thống pháp luật liên quan tôn giáo, đồng thời đề ra các chính sách tôn giáo phù hợp.

Để hiện thực hóa các quyền con người, Hiến pháp 2013 khẳng định các nguyên tắc chung về quyền con người, quyền công dân như sau: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong các trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội… Đây là những định hướng, những nguyên tắc cơ bản để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng

3.1.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về công nhận các tổ chức tôn giáo

Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, những quy định về việc công nhận các tổ chức tôn giáo đã được chi tiết và cụ thể hóa, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Trên cơ sở tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, những tổ chức tôn giáo muốn hoạt động tại Việt Nam phải được pháp luật tại Việt Nam công nhận thông qua việc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi (1), hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 05 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; (2), có hiến chương theo quy định tại Điều 23 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016; (3), người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; (4), có cơ cấu tổ chức theo hiến chương; (5), có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (6), nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.[17]

Việt Nam mặc dù công nhận và tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, không phân biệt giữa các tôn giáo với nhau, không phân biệt giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo hay không; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận. Tuy nhiên, không phải bất kỳ một tôn giáo nào cũng được phép tự do hoạt động mà hoàn toàn không phải chịu bất kỳ sự quản lý nào của nhà nước. Các tổ chức tôn giáo muốn hoạt động tại Việt Nam và thực hiện các hoạt động tín ngưỡng, các nghi lễ tôn giáo … đều cần phải đăng ký hoạt động và được nhà nước công nhận. Việc đăng ký hoạt động và cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động không phải là nhà nước ta hạn chế quyền tự do tôn giáo mà là để đảm bảo hoạt động của các tôn giáo là phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, an ninh trật tự của đất nước hoặc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. 

Trong giai đoạn hiện nay, xuất hiện một số “đạo” lạ như Hội thánh Đức Chúa Trời, Đạo Long Hoa, Tin lành Đề Ga… Thực chất là các hội, nhóm lập ra không được cơ quan có thẩm quyền cấp phép; hoạt động trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tín ngưỡng, tôn giáo chính thống và an ninh chính trị, trật tự xã hội. Vì thế nên đương nhiên không được Nhà nước công nhận, ngược lại còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi có những hành vi phạm quy định của Nhà nước, vi phạm thuần phong mỹ tục và đạo đức của dân tộc là những giá trị tốt đẹp đã được thừa nhận.

3.1.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về  mở cơ sở đào tạo tôn giáo

Trong quá trình hoạt động, các tôn giáo tùy thuộc vào nhu cầu có thể mở các cơ sở đào tạo tôn giáo. Nhà nước tôn trọng quyền mở cơ sở đào tạo tôn giáo tuy nhiên, việc mở cơ sở đào tạo tôn giáo được Nhà nước công nhận khi đáp ứng đủ các điều kiện:

“1. Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo; 

2. Có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo; 

3. Có chương trình, nội dung đào tạo; có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo; 

4. Có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo.”[18]

Pháp luật Việt Nam không can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của các tôn giáo mà chỉ đưa ra những quy định chung nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa các tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo hay một cơ sở đào tạo tôn giáo nào nếu muốn hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam công nhận đều phải đáp ứng những điều kiện cơ bản theo quy định, không có ngoại lệ. Pháp luật cũng không đưa ra các yêu cầu cụ thể về các nội dung trong chương trình đào tạo nhưng vẫn đặt ra những quy định khung, yêu cầu chung, cơ bản để phục vụ cho hoạt động đào tạo được diễn ra một cách bình thường là có cơ sở, có phương tiện và nhân sự đảm bảo cho việc duy trì chương trình đào tạo. Pháp luật Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu bắt buộc về nội dung chương trình là có môn học về lịch sử Việt Nam và Pháp luật Việt Nam, ngoài ra không có yêu cầu cụ thể về nội dung và phương pháp giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của chương trình đào tạo.

Có thể thấy, trong vấn đề về quản lý cơ sở tôn giáo, pháp luật Việt Nam chỉ đưa ra những quy định cơ bản nhất, không can thiệp sau vào công việc nội bộ các tôn giáo. Điều này nhằm tạo điều kiện tự do nhất có thể cho các tổ chức tôn giáo.

3.1.3. Thực trạng các quy định của pháp luật về  xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự, không gian sinh hoạt tôn giáo

Trong vấn đề xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự, không gian sinh hoạt tôn giáo, Nhà nước chủ trương giao đất cho các cộng đồng tôn giáo sử dụng lâu dài và đất đai tín ngưỡng, tôn giáo không phải chịu thuế như những loại đất khác.[19] Bên cạnh đó, Nhà nước đã đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhằm tôn trọng, khuyến khích các hoạt động tôn giáo. Cụ thể là với những công trình xây dựng sử dụng cho mục đích tôn giáo, chủ đầu tư chỉ cần lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật đầu tư xây dựng thay vì nhiều báo cáo như những công trình khác.[20]

Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa công trình sử dụng cho mục đích tôn giáo cũng được Nhà nước quy định rõ ràng trong luật. Đặc biệt trong một số trường hợp, việc xây dựng công trình sử dụng cho mục đích tôn giáo có thể được miễn giấy phép xây dựng.[21]

So với hệ thống quy phạm pháp luật cũ, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định cụ thể, rõ ràng, mang tính hướng dẫn giúp cho người thực hiện dễ dàng trong việc chuẩn bị. Các thủ tục giấy tờ được đơn giản hóa, Nhà nước có sự quan tâm sát sao trong việc đưa ra những ngoại lệ về xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự, không gian sinh hoạt tôn giáo.

3.1.4. Thực trạng các quy định của pháp luật về hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân

Luật tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng rõ ràng và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Theo đó, mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân được nhà nước công nhận và bảo đảm bằng các quy định của pháp luật: nghiêm cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì tín ngưỡng, tôn giáo; người đang bị tạm giam, đang chấp hành án trong trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện, trong tù cũng có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng tôn giáo.

Đối với các tổ chức tôn giáo, những tổ chức đáp ứng đủ các yêu cầu theo quy định của luật sẽ được Nhà nước công nhận là tổ chức tôn giáo; được hoạt động tôn giáo theo hiến chương riêng; được xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác thuộc về tôn giáo; được cải tạo, xây mới, nâng cấp cơ sở tôn giáo  và thực hiện các quyền khác theo luật quy định.

3.1.5. Thực trạng các quy định của pháp luật về sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ tôn giáo

Trong quá trình đổi mới pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam; đời sống tôn giáo ở Việt Nam thể hiện trên các mặt sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, hoạt động của chức sắc và những hoạt động của tổ chức tôn giáo.

Các tổ chức tôn giáo, tín đồ và chức sắc tôn giáo có quyền sinh hoạt tôn giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi của tôn giáo mà mình theo. Bên cạnh việc sinh hoạt tôn giáo cá nhân tại nơi ở, các tín đồ tôn giáo có thể tổ chức sinh hoạt tôn giáo tập trung, điều này được pháp luật quy định tại Khoản 2, Điều 6 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016: “Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo”; các tổ chức tôn giáo cũng có quyền tổ chức sinh hoạt tôn giáo theo Điều 7 của luật này. Một số sinh hoạt của một số tôn giáo, nhất là những tôn giáo có phạm vi địa phương, mới ra đời hoặc mới truyền vào, vì lý do nào đó trước đây không thực hiện thì từ khi đổi mới đến nay đều được phục hồi. Đặc biệt thời gian gần đây, nhiều sinh hoạt tôn giáo diễn ra quy mô lớn kéo dài thời gian mà trước đây không thực hiện được.

So với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004, pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể, chi tiết hơn về vấn đề sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ, nhằm mở rộng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Có thể nói, Nhà nước chủ trương tôn trọng, tạo điều kiện và bảo đảm mọi sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường trong khuôn khổ pháp luật. 

Việc đăng ký thực hiện các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện theo quy định của Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Thông tư 02/2017/TT-VPCP ngày 31/10/2017 của Văn phòng chính phủ hướng dẫn về nghiệp vụ kiểm soát thủ tục hành chính. Để thực hiện các hoạt động nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo, người đại diện hoặc ban quản lý các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân, pháp luật Việt Nam quy định Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét văn bản đăng ký, trong trường hợp chưa hợp lệ cần phải hướng dẫn, thông báo cho cơ sở tín ngưỡng để hoàn chỉnh văn bản. Trường hợp từ chối đăng ký thì Ủy ban nhân dân xã phải trả lời bằng văn bản và phải nêu rõ lý do trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ.

Để thuận tiện cho việc thực hiện các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo pháp luật cũng quy định việc đăng ký hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm chỉ thực hiện một lần, nếu có hoạt động phát sinh mới cần phải làm thủ tục đăng ký bổ sung. Việc từ chối đăng ký hoạt động tín ngưỡng tôn giáo bắt buộc phải được cơ quan chức năng trả lời bằng văn bản… Những quy định đó là cơ sở để bảo vệ quyền tự do của nhân dân trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

3.1.6. Thực trạng các quy định của pháp luật về in ấn, xuất bản các tác phẩm tôn giáo

Tất cả các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận đều có quyền xuất bản kinh sách và các xuất bản phẩm khác về tôn giáo, điều này được pháp luật quy định tại Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016[22] và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về những hoạt động này. Mọi hoạt động in ấn, xuất bản kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật quy định. 

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có những chế tài xử phạt cụ thể đối với những trường hợp in ấn, xuất bản các xuất bản phẩm tôn giáo trái pháp luật, áp dụng mức phạt hành chính lên đến 100.000.000 đồng.[23]

Việc quy định các thủ tục hành chính cũng như đưa ra các chế tài xử phạt mang tính răn đe trong vấn đề in ấn, xuất bản xuất bản phẩm tôn giáo là một động thái của Nhà nước trong việc bảo đảm “không ai có quyền lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện hành vi trái pháp luật”.

3.1.7. Thực trạng các quy định của pháp luật về hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo

Trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, các hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo được mở ra trên nhiều tuyến; chính vì thế, hệ thống pháp luật cũng mở rộng những quy định về tôn giáo, tín ngưỡng không chỉ ở Việt Nam mà còn ra phạm vi quốc tế, góp phần đảm bảo và mở rộng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.

Theo đó, các tổ chức, cá nhân tôn giáo có thể thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo hiến chương của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam và khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia có liên quan.[24]

Nhà nước cũng mở rộng quyền với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài: quyền hoạt động tại Việt Nam trên cơ sở thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành;  tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.[25]

3.1.8. Thực trạng các quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc thiểu số

Dân tộc thiểu số là nhóm đối tượng đặc thù và dễ bị tổn thương, do đó, Nhà nước đã có những quy định để bảo vệ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng này.

Trước hết là chỉ thị số 01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo tin lành nhằm củng cố lại tổ chức của tôn giáo này, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc tồn tại tại thời điểm đó giữa đồng bào dân tộc thiểu số và Nhà nước. Tiếp theo, Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016 đã quy định rất rõ những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó Điểm c Khoản 4 Điều 5 quy định về việc Nghiêm cấm các hành vi chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. 

Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng với mọi công dân Việt Nam, ai cũng có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt dân tộc hay địa lý. Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho những dân tộc thiểu số cũng là động thái nhằm giải quyết vấn đề kích động nhằm chia rẽ, chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch.

3.1.9. Thực trạng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Song song với việc mở rộng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, công tác bảo đảm quyền này cũng đặt ra vấn đề cần có một chế tài xử lý những vi phạm về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 đã quy định các hành vi bị cấm trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể là:

1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.

4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.[26]

Bên cạnh đó, nhà nước cũng đưa ra những quy định về chế tài xử lý đối với vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi mà có thể áp dụng xử lý hành chính hoặc hình sự, cụ thể như:

Phạt tiền đến 30.000.000 đồng với các hành vi vi phạm pháp luật về lĩnh vực tôn giáo;[27]

Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với các hành vi gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị – xã hội;[28]

Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm đối với các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm;[29]

Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với hành vi lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.[30]

3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Những quy định mới về tự do tín ngưỡng của pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý, là điều kiện cho các tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền tự do tôn giáo và không tôn giáo của nhân dân. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những bất cập đặt ra yêu cầu hoàn thiện hơn nữa về pháp luật.

Với đặc điểm là một quốc gia đa tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng khác nhau, Việt Nam tồn tại nhiều tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo… được du nhập từ hàng nghìn năm trước. Bên cạnh đó là những tôn giáo hình thành trong nước như đạo Mẫu, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tứ Ân… Quan điểm tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình quản lý đất nước của Đảng và Chính phủ, quan điểm đó không chỉ được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật mà còn được thể hiện một cách cụ thể, sinh động trong thực tiễn đời sống xã hội.

3.2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về công nhận các tổ chức tôn giáo

Từ khi có những quy định mới của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ngày càng có thêm nhiều tổ chức tôn giáo được pháp luật công nhận.

Từ năm 2010 đến nay, Bộ Nội vụ đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 10 tổ chức và 01 ban đại diện tôn giáo. Tính đến cuối năm 2020, cả nước có 43 tổ chức tôn giáo có địa vị pháp lý hoạt động ở Việt Nam, trong đó có 36 tổ chức và 01 Pháp Môn được công nhận, 04 tổ chức được cấp đăng ký, 01 tôn giáo có một số chùa tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận Ban Trị sự, Ban Quản trị chùa, 01 Thánh đường của Hồi giáo được công nhận Ban Quản trị thánh đường. Cụ thể là:

Phật giáo có Giáo hội Phật giáo Việt Nam;

Công giáo có Giáo hội Công giáo Việt Nam; 

Đạo Tin lành gồm: Hội thánh Tin lành Việt Nam (Miền Bắc), Hội thánh Tin lành Việt Nam (Miền Nam), Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Tổng Hội Báp – tít Việt Nam (tên gọi cũ là Tổng hội Báp – tít Việt Nam Ân điển – Nam Phương), Giáo hội Báp – tít Việt Nam (tên gọi cũ là Hội thánh Báp – tít Việt Nam- Nam Phương), Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam, Hội thánh Mennonite Việt Nam, Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, Giáo hội Phúc Âm Ngũ tuần Việt Nam;

Đạo Cao đài gồm: Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên, Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo, Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu, Hội thánh truyền giáo Cao Đài, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Hội thánh Cao Đài Bạch y liên đoàn Chơn lý, Hội thánh Cao Đài Chơn lý, Hội thánh Cao Đài Cầu kho – Tam quan, Hội thánh Cao Đài Việt Nam Bình Đức;

Phật giáo Hòa Hảo có Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo;

Hồi giáo gồm: Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh, Cộng đồng Hồi giáo (Islam) tỉnh An Giang, Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận, Cộng đồng Hồi giáo (Islam) tỉnh Tây Ninh, Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo (Islam) tỉnh Ninh Thuận, Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Bình Thuận, Ban Quản trị thánh đường Al noor Hà Nội (Sở Nội vụ TP. Hà Nội ban hành Quyết định công nhận Ban Quản trị thánh đường);

Tôn giáo Baha’i có Cộng đồng Tôn giáo Baha’i Việt Nam;

Tịnh độ Cư sỹ Phật hội có Giáo hội Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam;

Cơ đốc Phục lâm có Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam;

Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa có Phật hội Tứ Ân Hiếu nghĩa;

Minh Sư đạo có Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo;

Minh lý đạo – Tam Tông Miếu có Hội thánh Minh lý đạo – Tam Tông Miếu;

Bà-la-môn giáo gồm Hội đồng chức sắc Chăm Bà-la-môn tỉnh Ninh Thuận và Hội đồng chức sắc Bà-la-môn giáo tỉnh BìnhThuận;

Đạo Mặc môn có Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Ky-tô Việt Nam là tổ chức được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo;

Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn có Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn là tổ chức được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo;

Bửu Sơn Kỳ hương, Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho chùa Bửu Sơn Kỳ Hương, công nhận tổ chức tôn giáo cho đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có cơ cấu tổ chức là Ban Quản lý chùa hoặc không có cơ cấu tổ chức.

Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, mỗi người dân đều có quyền theo hay không theo một tôn giáo nào. Các tổ chức tôn giáo cũng luôn được bình đẳng trước pháp luật. Tuy vậy khi hoạt động, các tổ chức này đều có nghĩa vụ phải đăng ký và được công nhận đúng quy định của pháp luật về trình tự pháp lý và các điều kiện quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo đều tiến hành nắm lại thực lực tín đồ chức sắc, cơ sở tôn giáo, phạm vi hoạt động, tiến hành tổ chức Đại hội Đại biểu thông qua Hiến chương (Điều lệ), đường hướng hành đạo và bầu cơ quan lãnh đạo Giáo hội để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động đã xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo đậm chất nhân văn tôn giáo và trách nhiệm với đất nước, dân tộc.

3.2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về mở cơ sở đào tạo tôn giáo

Cùng với việc chấp thuận tổ chức và đăng ký hoạt động là công tác chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo thành lập trường, mở lớp đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo có đủ nhân sự quản lý và tổ chức các hoạt động tôn giáo.

Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, Phật giáo có các cơ sở đào tạo Tăng ni của Giáo hội mở  rộng trên khắp các miền. Hệ thống các trường Trung cấp Phật học được đặt tại các cơ sở của các Tỉnh, Thành hội Phật giáo. Hiện Phật giáo có bốn học viện Phật giáo: Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Huế, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer tại thành phố Cần Thơ; một trường Cao đẳng Phật học và 32 trường Trung cấp Phật học. Giáo hội Công giáo có một Học viện Công giáo, bảy Đại chủng viện và một cơ sở II Đại chủng viện Thánh Giuse tại Hà Nội; Tin lành có một Viện Thánh kinh thần học và một trường Thánh kinh thần học. Đạo Cao Đài có Học viện Truyền Giáo Cao Đài tại Đà Nẵng.

Năm 2014, trên 13.000 người đã tốt nghiệp các khóa đào tạo hoặc bồi dưỡng về tôn giáo; trên 7.000 người đang tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng chức sắc của các tổ chức tôn giáo. Nhiều tổ chức tôn giáo cũng cử chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tham gia các khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài. HIện Việt Nam có khoảng 250 tăng ni du học tại Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Mi-an-ma; 250 linh mục được đào tạo tại Pháp, Hoa Kỳ, Ý, Phi-líp-pin. Năm 2014 có hơn 2.000 chức sắc, nhà tu hành được các tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm; trên 1.000 người được bổ nhiệm.

Tính tới nay, theo Cục An ninh Nội địa (Bộ Công an), các tôn giáo ở Việt Nam có đến 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa hảo; tính đến tháng 11/2019, cả nước có 57.409 chức sắc, 147.028 chức việc, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu tôn giáo của tín đồ.

3.2.3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự, không gian sinh hoạt tôn giáo

Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, những năm qua, hàng trăm héc-ta đất đã được cấp cho các tổ chức tôn giáo để xây dựng cơ sở thờ tự, đặc biệt là: Thành phố Hồ Chí Minh đã cấp cho Tòa Tổng Giám mục xây dựng Trung tâm mục vụ và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) 7.500m² đất để xây dựng Viện Thánh kinh thần học; Giáo hội Phật giáo Việt Nam được cấp 20.000m² để xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội; Tòa Giám mục Buôn Mê Thuột được cấp 11.000m²; Tòa Giám mục Đà Nẵng được cấp hơn 9.000m²; Giáo xứ La Vang ở Quảng Trị được cấp thêm 15.000m² để xây dựng Trung tâm hành hương; Hội truyền giáo Cơ Đốc Việt Nam được cấp 6.000m² để xây dựng trụ sở mới. Nhiều tỉnh cơ bản đã hoàn thành giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo như Ninh Bình 94%, Bắc Ninh 90%…[31]

Từ sau khi có những quy định của Nhà nước, các công trình tôn giáo được tôn tạo, xây mới ngày càng nhiều. Đến nay, trên cả nước, Phật giáo có khoảng 17.000 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường; Công giáo có 7.445 cơ sở thờ tự; Tin lành có gần 500 nhà thờ, nhà nguyện; Cao Đài có 1.281 thánh thất; Phật giáo Hòa Hảo có 43 ngôi chùa được công nhận; Hồi giáo có 89 thánh đường… Riêng năm 2014 có hơn 900 cơ sở thờ tự được cải tạo, nâng cấp, xây mới. Có những công trình tôn giáo được xây dựng với quy mô lớn và hoành tráng, được công nhận không chỉ trong nước mà còn cả trong khu vực và thế giới như chùa Bái Đính (Ninh Bình), chùa Tam Chúc (Hà Nam), Đền Thánh Kiên Lao (Nam Định), Thánh đường Jamiul Azhar (Kiên Giang)… Những công trình này không chỉ mang giá trị tôn giáo mà đồng thời còn có những nét kiến trúc độc đáo, trở thành địa điểm du lịch tâm linh thu hút du khách trong và ngoài nước. 

Tuy vậy, nhiều địa phương vẫn gặp khó khăn trong việc xác định căn cứ pháp lý để giải quyết việc xây dựng chùa chiền, cơ sở thờ tự và thiếu sự đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan như Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật cư trú, Luật di sản… các trình tự thủ tục vẫn còn tương đối phức tạp gây khó khăn cho hoạt động xây dựng cơ sở tôn giáo, thờ tự, phục vụ cho tín ngưỡng, tôn giáo

Bên cạnh đó còn có sự khác biệt trong cách xác định “địa điểm hợp pháp” để giải quyết đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo, thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc dẫn đến khó khăn cho các tổ chức tôn giáo. Có quan điểm cho rằng, “địa điểm hợp pháp” trong các trường hợp này là nhà ở, đất đai, công trình xây dựng phải thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của tổ chức tôn giáo; trong đó đất đai phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đai tôn giáo, nhà ở và công trình phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận cho phép xây dựng theo quy định của pháp luật xây dựng; nếu chưa phải là đất đai thuộc quyền sử dụng của tổ chức tôn giáo thì cũng phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đai tôn giáo. Trong khi đó, có quan điểm cho rằng, “địa điểm hợp pháp” là nhà ở, đất đai, công trình xây dựng được tổ chức, cá nhân tạo lập hợp pháp theo quy định của pháp luật. Do vậy, ngoài các trường hợp nhà ở, đất đai, công trình xây dựng thuộc quyền quản lý, sở hữu, sử dụng của tổ chức tôn giáo thì “địa điểm hợp pháp” còn bao gồm nhà ở, đất đai, công trình thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác mà tổ chức tôn giáo thuê, mượn theo quy định của Luật Dân sự.

Việc định nghĩa “địa điểm hợp pháp” tại Khoản 15, Điều 2, áp dụng chung cho tất cả đối tượng, khách thể quản lý hoạt động tôn giáo rõ ràng chưa phù hợp với thực tiễn cả dưới góc độ tổ chức tôn giáo lẫn dưới góc độ quản lý nhà nước. Cụ thể:

Dưới góc độ tổ chức tôn giáo: địa điểm đặt nơi sinh hoạt tôn giáo tập trung, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có ý nghĩa khác nhau với các tôn giáo khác nhau. Trong đó, đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung, địa điểm đặt trụ sở, nơi sinh hoạt tôn giáo không nhất thiết gắn liền với cơ sở thờ tự. Nhưng đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc ở cơ sở (“chùa” của Phật giáo, “giáo xứ” của Công giáo, “họ đạo” của đạo Cao Đài…) là nơi gắn liền với cơ sở thờ tự mang yếu tố linh thiêng phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành, chức việc và quần chúng tín đồ. Do đó, việc cho thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc ở cơ sở đồng nghĩa với việc giải quyết cho tổ chức tôn giáo tạo lập, xây dựng mới cơ sở thờ tự và công trình tôn giáo phụ trợ.

Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý nhà nước: việc thực thi pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đòi hỏi sự đồng bộ, thống nhất với các ngành luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan; phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việc áp dụng “địa điểm hợp pháp” theo quy định trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để giải quyết việc thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc ở cơ sở là chưa phù hợp, chồng chéo với các quy định của pháp luật về đất đai, xây dựng và quy hoạch, thậm chí tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh, quốc phòng.

3.2.4. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân

Việt Nam mỗi năm có tới hơn 8.000 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo lớn nhỏ được tổ chức, thu hút đông đảo người dân, du khách trong nước và bạn bè quốc tế. 

Rất nhiều lễ hội tôn giáo không còn là chuyện riêng của tôn giáo đó mà nó có sức lan tỏa, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng xã hội như  Lễ Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh Cao đài Tây Ninh…

Trong những năm gần đây, nước ta đã tổ chức thành công nhiều lễ hội tôn giáo lớn, mang tính quốc tế như: Đại lễ Vesak Liên hợp quốc (năm 2014 và năm 2019), Năm Thánh Giáo hội (2010), Hội nghị toàn thể Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X (năm 2012), các kỳ Đại hội hành hương La Vang (Quảng Trị); Đại lễ Kỷ niệm 100 năm Tin lành truyền đến Việt Nam (năm 2011), 500 năm cải chánh Tin lành; Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm Giáng sinh Giáo chủ Baha’u’llah của tôn giáo Baha’i… thu hút không chỉ chức sắc, nhà tu hành trong và ngoài nước mà còn các học giả, chính khách các nước tham gia, được dư luận trong và ngoài nước quan tâm.. Ngay cả trong thời điểm dịch Covid bùng phát mạnh mẽ trên thế giới và tại Việt Nam, các hoạt động tôn giáo vẫn diễn ra cơ bản ổn định, tuân thủ pháp luật, theo đúng Hiến chương, điều lệ, tôn chỉ, mục đích của tôn giáo và thực hiện theo đúng phương châm hành đạo gắn bó, đồng hành với dân tộc. Quan hệ giữa chính quyền với tôn giáo ngày càng cởi mở, gắn bó hơn. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp, lãnh đạo của 43 tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã chấp hành nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống đại dịch COVID-19 và hướng dẫn của các cơ quan chức năng về phòng, chống dịch. Chính quyền các cấp đã quan tâm hướng dẫn, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của Giáo hội, tạo sự đồng thuận trong chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, yên tâm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Một số tổ chức tôn giáo đã tổ chức đại hội nhiệm kỳ và tiến hành sửa đổi Hiến chương để đảm bảo thực hiện đúng quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.[32]

3.2.5. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ tôn giáo

Theo ước tính Việt Nam có tới 95% dân số Việt Nam hiện nay có đời sống tín ngưỡng trên 24 triệu tín đồ của các tôn giáo khác nhau (chiếm khoảng 27% dân số), thuộc 43 tổ chức tôn giáo. Tính đến tháng 11/2019, cả nước có 57.409 chức sắc, 147.028 chức việc và khoảng 27.900 cơ sở thờ tự. 

Về sinh hoạt tôn giáo, tín đồ các tôn giáo đều thực hiện các sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của tôn giáo mình. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, không khí sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân ngày càng sôi động và có chiều hướng gia tăng. 

Một số lễ nghi tôn giáo còn trở thành nét đặc trưng được cộng đồng người dân trong nước và quốc tế công nhận, tiêu biểu là nghi thức thờ Mẫu Tam phủ (lên đồng) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2016.

Đặc biệt thời gian gần đây, nhiều sinh hoạt tôn giáo diễn ra quy mô lớn kéo dài thời gian như Đại lễ Vesak 2019 tại Chùa Tam Chúc – Hà Nam có sự tham gia của trên 3000 đại biểu đến từ 106 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng hàng chục nghìn tăng, ni, phật tử và những người có tín ngưỡng Phật giáo khắp nơi tới dự; Lễ “500 năm cải chính Đạo Tin lành” 2017 tại Hà Nội với hơn 10.000 người tham dự…

Những sinh hoạt này không chỉ là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong các cộng đồng của đồng bào có đạo mà còn đang trở thành ngày hội thu hút toàn dân tham gia. Nhiều tổ chức tôn giáo ở cơ sở (giáo xứ, chùa, họ đạo, chi hội…) dù phạm vi hoạt động trong địa bàn một xã, phường, thị trấn, nhưng lại có những hoạt động tôn giáo quy mô rất lớn với thành phần tham dự lên đến vài chục nghìn người ở nhiều địa phương trong cả nước. Thậm chí có những hoạt động có hàng nghìn chức sắc, nhà tu hành tham dự; có hoạt động một vài chức sắc, nhà tu hành lợi dụng sinh hoạt tôn giáo, lễ nghi tôn giáo để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước do đó cần có sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung tuy nhiên việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung vẫn còn một số bất cập như không phù hợp với xu thế cải cách thủ tục hành chính, không phù hợp với thực tiễn sinh hoạt tôn giáo khi yêu cầu tổ chức tôn giáo là chủ thể quản lý ở cấp vĩ mô, không trực tiếp quản lý sinh hoạt tôn giáo của tín đồ lại đăng ký sinh hoạt tôn giáo cho họ. Đặc biệt với Công giáo – tổ chức giáo hội thống nhất từ Giáo triều Vatican đến giáo xứ, với 3 cấp hành chính đạo (giáo triều, giáo phận, giáo xứ), 2 cấp giáo hội (giáo hội hoàn vũ và giáo hội địa phương), 3 cấp trung gian (giáo miền, giáo tỉnh, giáo hạt); trong đó, giáo phận (giáo hội địa phương) do giám mục chính tòa quyết định toàn bộ các vấn đề trong địa bàn.

3.2.6. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về in ấn, xuất bản các tác phẩm tôn giáo

Việc in kinh sách và xuất bản các ấn phẩm liên quan tôn giáo được duy trì thường xuyên, bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động tôn giáo. Trong 5 năm qua, hơn 3.000 đầu ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in, hàng triệu CD, DVD bằng nhiều ngôn ngữ. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã xuất bản báo, tạp chí, bản tin. Theo thống kê từ năm 2006 đến nay, Nhà Xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản 8.683 xuất bản phẩm, trong đó có 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in. Trung bình mỗi năm có hàng nghìn ấn phẩm liên quan đến tôn giáo được cấp phép xuất bản, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như Anh, Pháp và tiếng dân tộc Khơ-me, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na…. Hiện Việt Nam đang nghiên cứu in thí điểm Kinh thánh song ngữ Việt – Mông – nước ngoài…

Tổ chức tôn giáo có nhu cầu cần in, xuất bản các loại kinh, sách, văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo phải đăng ký đề tài xuất bản với Nhà Xuất bản Tôn giáo trực thuộc Ban Tôn giáo của Chính phủ, giấy phép xuất bản không được chuyển nhượng dưới bất cứ hình thức nào. Trong trường hợp nhập khẩu các văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo cũng cần phải thực hiện các thủ tục hải quan.

3.2.7. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo

Hàng năm có hàng trăm lượt chức sắc tôn giáo Việt Nam tham dự các hoạt động tôn giáo ở nước ngoài và hàng ngàn lượt cá nhân tôn giáo nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam giảng đạo và tham gia các hoạt động, sự kiện tôn giáo.

Hầu hết các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều có mối quan hệ quốc tế nhất định ở các mức độ khác nhau. Phật giáo Việt Nam có các quan hệ và giao lưu với Phật giáo các nước trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Ấn Ðộ, Campuchia, Lào, Thái-lan, Sri Lanka, Ðài Loan, Nga, Mông Cổ, Pháp, Mỹ, Nhật Bản… Ðạo Công giáo có mối quan hệ về tổ chức và là một bộ phận của Giáo hội Công giáo hoàn vũ Va-ti-căng, có quan hệ giao lưu với Giáo hội Công giáo các nước Pháp, Mỹ, Philippines, Trung Quốc, các nước châu Âu, là thành viên của Liên Hội đồng giám mục Á châu.

Các hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo diễn ra ở nhiều lĩnh vực, từ đào tạo, hội nghị, hội thảo đến việc chia sẻ kinh nghiệm cũng như vấn đề truyền giáo… số lượng các đoàn ra nước ngoài và các đoàn nước ngoài đến Việt Nam để nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo luôn tăng và được đảm bảo theo quy định. Theo số liệu của Bộ Nội vụ, trong năm 2019, Ban Tôn giáo Chính phủ đã giải quyết 38 đoàn ra nước ngoài với số lượng là 170 người; chấp thuận cho 77 đoàn nước ngoài vào hoạt động tôn giáo tại Việt Nam với số lượng là 467 người; tiếp đón và làm việc với 21 đoàn khách quốc tế đến tìm hiểu về tôn giáo và chính sách, pháp luật về tôn giáo của Việt Nam. 

Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện: Kỷ niệm 500 năm cải chánh Đạo Tin lành, Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak vừa được tổ chức vào tháng 5/2019, Tổng Hội dòng Đa minh thế giới, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

3.2.8. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc thiểu số

Quyền tự do tôn giáo của các dân tộc thiểu số luôn được bảo đảm: năm 2017, Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ; ở Bình Phước và Tây Nguyên có 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm; ở Tây Bắc có 693 điểm nhóm Tin lành, 8 Hội thánh cơ sở được thành lập; nhiều điểm nhóm của người dân tộc thiểu số theo Hội thánh Lutheran, Hội Liên hữu Baptist Việt Nam đã đăng ký sinh hoạt tập trung…Ngoài ra, còn có rất nhiều tăng sỹ theo học các trường đại học, cao đẳng trường dạy nghề ngoài đời và du học tại nước ngoài với bậc học thạc sỹ, tiến sỹ.

Nhà nước hỗ trợ in ấn Kinh thánh song ngữ tiếng Việt và các tiếng của dân tộc thiểu số; đã xuất bản trên 30.000 cuốn Kinh thánh bằng tiếng Ba-na, Êđê, Gia-rai; cho phép in và nhập kinh sách Phật giáo Nam Tông Khơ-me; chuẩn bị xuất bản Kinh Coran song ngữ Việt Nam – Ả rập…

3.2.9. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo

Với quan điểm nhất quán không ai được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, Nhà nước đã có những biện pháp xử lý nghiêm minh với những hành vi đội lốt tôn giáo để làm những việc sai trái, chống phá bộ máy Đảng và Nhà nước hoặc lợi dụng tôn giáo để trục lợi, thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật khác. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Căn cứ quy định của pháp luật về tín ngưỡng và tôn giáo, Luật xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt cụ thể và thẩm quyền lập biên bản đối với hành vi vi phạm hành chính; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

Tín ngưỡng, tôn giáo là lĩnh vực khá nhạy cảm đối với chính trị. Không ít người đã lợi dụng tôn giáo để thực hiện các mục tiêu chính trị. Năm 2007, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Văn Lý 8 năm tù giam về hành vi lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chống phá Nhà nước. Việc xử lý hành vi vi phạm của Nguyễn Văn Lý mặc dù theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành nhưng cũng bị truyền thông của một số nước xuyên tạc làm ảnh hưởng đến tình hình chính trị, tư tưởng của người dân.

Hay như tại Quảng Bình, vào năm 2019 một số linh mục cực đoan núp bóng tôn giáo để xúi giục giáo dân làm nghề chạy thuyền phục vụ du khách tham quan động Phong Nha ngừng hoạt động nhằm tạo sức ép để tăng giá vé; ngang nhiên có các hoạt động lấn chiếm đất công để mở rộng khuôn viên nhà thờ, làm đường trái với quy hoạch, gây nguy cơ xung đột và bất ổn tình hình trên địa bàn; tuyên truyền, chỉ đạo các giáo dân có con em theo học mầm non và tiểu học không cho các cháu đến trường với lý do phản đối các khoản thu nộp đầu năm, ngăn cản học sinh trung học cơ sở nộp học phí. Gần đây nhất, việc Trần Văn Thanh, ở thôn Cồn Sẻ, xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn bị bắt với tội danh hiếp dâm người dưới 16 tuổi, nhiều trang Facebook cá nhân mang tên một số linh mục trên địa bàn đã xuyên tạc về vụ việc và kêu gọi giáo dân đấu tranh trả tự do cho Trần Văn Thanh; một số người dùng mạng xã hội do thiếu hiểu biết và bị kích động, lôi kéo nên đã chia sẻ thông tin sai sự thật này. Với những vi phạm trên, Nhà nước đều có những động thái xử lý nghiêm minh.

Hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo rất đa dạng và được thực hiện với nhiều thủ đoạn và quy mô khác nhau. Các hành vi phổ biến có thể kể đến là lợi dụng hoạt động thỉnh vong, gọi hồn để hành nghề mê tín dị đoan; lừa đảo, trục lợi hoặc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng không thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định hoặc có thay đổi về quy mô, nội dung, thời gian, địa điểm mà không đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội…

Để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các hành vi như: kỳ thị, phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; mua chuộc người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc, cản trở người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào; lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm hoặc lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để bịa đặt, xuyên tạc dưới mọi hình thức nhằm chống lại Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng bị xử lý nghiêm minh.

Như vậy, có thể nói, Nhà nước luôn tạo điều kiện và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của công dân nhưng không vì thế mà cho phép những cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi trái pháp luật dưới bóng tôn giáo, tín ngưỡng. Nhìn theo một góc độ khác, động thái xử lý nghiêm những hành vi vi phạm cũng là một phương thức để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân.

3.3. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

3.3.1. Thành tựu của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo

Qua nghiên cứu pháp luật về tôn giáo hiện hành, có thể tổng kết lại một số thành tựu của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay như sau:

Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Quyền này được thể hiện rõ ở những quan điểm, chủ trương, hiến pháp, pháp luật và được bảo đảm thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, Đảng ta đã xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Theo đó, Đảng và Nhà nước ta “thực hiện chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật”.

Thứ ba, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là bước rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế quan trọng, Việt Nam cam kết tôn trọng và bảo đảm cho người dân các quyền đã được công nhận trong các công ước bằng hoạt động lập pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quyền con người được các công ước ghi nhận. Hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo không ngừng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo không những tăng nhanh về số lượng mà còn phong phú và đa dạng hơn về hình thức để phù hợp với tình hình thực tiễn. Đặc biệt, trên cơ sở nghị Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa thành các quy định của pháp luật và các kế hoạch, giải pháp, cơ chế bảo đảm thực hiện, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ tư, dù là tôn giáo nội sinh hay phái sinh, dù ở vùng miền nào, các tổ chức đã được công nhận hay mới cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đều có đường hướng, phương châm hành đạo riêng nhưng đều chung một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo” gắn bó với dân tộc, đồng hành cùng đất nước, sinh hoạt tôn giáo ổn định, chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

Với sự cởi mở của chính sách tôn giáo nước ta hiện nay, hệ thống tôn giáo đã thay đổi căn bản, thực sự đa dạng, phong phú hơn.

Tính đến nay, 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước[33]. Điều này cho thấy những nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo đời sống người dân, phát triển đất nước cũng như tích cực cùng nhân loại xây đắp, củng cố hòa bình trong khu vực và trên thế giới, xây dựng quan hệ bình đẳng cùng có lợi giữa các quốc gia để cùng phát triển.

Nhờ chính sách và đường lối đúng đắn, Việt Nam xây dựng được tính dung hoà giữa các tôn giáo. Do vị trí địa lý đặc biệt, Việt Nam trở thành nơi giao thoa của các nền văn hoá trong khu vực và trên thế giới, tuy nhiên, người Việt không có tư tưởng kỳ thị hoặc chia rẽ tôn giáo. Ở hầu hết các lễ hội tôn giáo, ngoài sự hiện diện của tín đồ, còn có rất nhiều người dân, thậm chí là tín đồ của các tôn giáo khác cũng đến xem lễ, thăm quan, du lịch, tìm hiểu văn hoá-tín ngưỡng…

Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong những năm qua chứng tỏ thực tế này. Việc bày tỏ đức tin, lễ nghi, lễ hội tôn giáo diễn ra bình thường, đặng biệt là những dịp lễ lớn. Những ngày lễ trọng của các tôn giáo được tổ chức với quy mô ngày một lớn, thu hút nhiều tín đồ tham dự với tinh thần phấn khởi, yên tâm, tin tưởng vào chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. 

Hơn nữa, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có quyền và được Nhà nước tạo điều kiện mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo; chủ động trong việc củng cố tổ chức phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành để chăm lo việc đạo theo Hiến chương của các tôn giáo và quy định của pháp luật; các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như mọi công dân khác theo quy định của pháp luật… Đây là cơ sở để tín đồ tôn giáo, chức sắc tôn giáo yên tâm hành đạo, đồng thời giúp cho mỗi người dân thấy được quyền lợi và trách nhiệm của mình, gắn bó quyền lợi của mình với lợi ích quốc gia, dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo, không ngừng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Không chỉ trong cộng đồng người có đạo, công tác đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn đem lại những lợi ích về mặt kinh tế, chính trị cho đất nước:

– Xu hướng du lịch tâm linh càng ngày càng trở nên phát triển, số lượng khách du lịch tâm linh mỗi năm một tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu khách du lịch. Trong số 32,5 triệu khách du lịch nội địa năm 2012 chỉ tính riêng số khách đến các điểm tâm linh (chùa, đền, phủ, tòa thánh) có khoảng 13,5 triệu lượt, tương đương 41,5%. Một số điểm du lịch tâm linh tiêu biểu năm 2012 đón một lượng khách lớn như Miếu Bà Chúa Xứ An Giang (3,6 triệu lượt khách), Chùa Hương (1,5 triệu lượt); Chùa Bái Đính (2,1 triệu lượt), Yên Tử (2,3 triệu lượt), khu du lịch Núi Bà Đen (2,2 triệu lượt); Côn Sơn Kiếp Bạc (1,2 triệu). Góp phần làm tăng trưởng ngành du lịch trong nước nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.

Sự phát triển của du lịch tâm linh còn đóng góp tích cực vào phát triển bền vững. Người dân địa phương được chủ động tham gia vào các hoạt động phục vụ khách tại các điểm du lịch tâm linh: chèo đò, xích lô, bán hàng lưu niệm, hướng dẫn, tiêu thụ sản vật địa phương, phục vụ ăn uống. Du lịch tâm linh tạo việc làm và thu nhập trực tiếp cho người dân địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang kết hợp dịch vụ. Du lịch tâm linh đạt tới sự phát triển cân bằng về các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và đóng góp tích cực vào phát triển bền vững. 

– Ổn định tôn giáo góp phần ổn định chính trị. Mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tôn giáo và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngày nay, nhờ có sự quan tâm và bảo đảm của Nhà nước, đời sống giáo dân được quan tâm một cách toàn diện cả về phần đạo và phần đời, có được cuộc sống mà ở đó “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Việc nhìn nhận tôn giáo một cách toàn diện, linh hoạt trên hệ quy chiếu lợi ích quốc gia đã vận động, thuyết phục được đồng bào có đạo trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời góp phần phát huy được ưu điểm, sức mạnh của đồng bào có đạo trong sự nghiệp chung của dân tộc. Chính điều đó đã làm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm thất bại âm mưu chia rẽ của kẻ thù.

3.3.2. Một số hạn chế của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo

Đi cùng với sự phát triển ngày một mạnh mẽ của tôn giáo là những vấn đề mới phát sinh, qua đó cho thấy một số hạn chế của pháp luật hiện hành đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ nhất, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo bộc lộ một số bất cập, hạn chế, gây khó khăn cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo: một số khái niệm đưa ra chưa rõ ràng, cụ thể; thiếu thống nhất trong một số quy định; khó xác định thẩm quyền; các quy định về địa điểm tôn giáo còn chồng chéo với quy định của pháp luật về đất đai, xây dựng và quy hoạch; việc tiếp nhận thông báo hoạt động tôn giáo dựa vào dựa vào “địa bàn hoạt động tôn giáo” của tổ chức tôn giáo, không dựa vào “thành phần tham dự hoạt động” dẫn đến khó khăn cho địa phương quản lý; thiếu sự bình đẳng giữa các chủ thể…

Thứ hai, quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo còn có biểu hiện khi thì cứng nhắc, khi thì buông lỏng, chưa xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật. Sở dĩ có điều này do một số cán bộ làm công tác quản lý về tôn giáo chưa thực sự nhận thức đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng.

Thứ ba, tình trạng lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước vì mục đích chính trị gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc hoặc có những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín, dị đoan, trục lợi cá nhân còn diễn ra ở một số địa phương dưới các hình thức khiếu kiện đông người, kéo dài, gây áp lực với chính quyền, gây rối trật tự công cộng và an toàn xã hội.

Thứ tư, vẫn còn tồn tại xung đột mâu thuẫn giữa các tôn giáo hoặc xung đột, mâu thuẫn trong nội tại từng tôn giáo mà nếu không kịp thời xử lý, có thể gây ra tình hình bất ổn định nghiêm trọng trong khu vực.

Trong quá trình thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng đã xuất hiện những bất cập:

– Về việc xuất hiện tình trạng kinh tế hóa tôn giáo, “kinh doanh tâm linh”, đi ngược lại với văn hóa, thuần phong mỹ tục. Lợi dụng những chính sách ưu ái của pháp luật đối với tôn giáo, có những đền chùa được xây dựng bởi cá nhân, doanh nghiệp chỉ với mục đích trục lợi kiếm lời. Trong một số năm trở lại đây, tình trạng này xuất hiện ngày một nhiều, thậm chí còn có xu thế phát triển thành “ngành công nghiệp tâm linh” tiêu tốn tiền bạc, nguồn lực của đất nước. Những hoạt động này vừa không cải thiện được giá trị tôn giáo cho tín đồ, vừa làm xấu đi hình ảnh tôn giáo trong mắt những người không theo đạo. 

– Về sai phạm trong trùng tu, sửa chữa công trình tôn giáo. Việc sửa chữa, tu bổ cơ sở tôn giáo sai nguyên tắc, không có tính toán, không có kiến thức về lịch sử – văn hóa khiến cho một số công trình tôn giáo bị phá hủy hoàn toàn về giá trị tâm linh và giá trị nghệ thuật. Năm 2012, việc trùng tu Chùa Trăm Gian (Chương Mỹ – Hà Nội) khiến nhà tổ, gác khánh có tuổi đời nhiều trăm năm của chùa bị đập bỏ để xây dựng thành di tích một ngày tuổi; năm 2018, việc sửa chữa, trùng tu chùa Bạch Tượng một cách tự ý thay đổi cấu trúc dẫn đến ngôi chùa cổ niên đại 500 năm không được đảm bảo theo nguyên trạng, không có khả năng khôi phục để đảm bảo tiêu chí trong xếp hạng di tích. Những sai phạm nghiêm trọng trong vấn đề tu bổ và sửa chữa cơ sở tôn giáo gây ra bức xúc không nhỏ trong xã hội, đồng thời khiến người dân nghi ngờ về công tác quản lý của Nhà nước.

– Về vấn đề lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước. Những đối tượng này đã lợi dụng tôn giáo, lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền. Biểu hiện cụ thể của hoạt động này mà các đối tượng thường sử dụng là lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để khống chế, kích động quần chúng, tuyên truyền chống chế độ; lợi dụng thần quyền và hệ thống tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động, khống chế quần chúng phá rối an ninh, gây bạo loạn. Gần đây, các đối tượng ráo riết tiến hành các hoạt động này ở những địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ; thực hiện ý đồ “tôn giáo hóa vùng dân tộc thiểu số”. Đáng chú ý, các thế lực này đã tuyên truyền, lôi kéo lập ra một số hình thức “tôn giáo” riêng cho người dân tộc thiểu số như “Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên; kích động luận điệu “Tin lành riêng của người Mông”, “Phật giáo riêng của người Khơme”.

4. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào có đạo và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lí luận của Đảng về vấn đề tôn giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị, ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Trong quá trình đổi mới, tư duy lí luận của Đảng về vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, nhất là Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa IX), ngày 12/3/2003. Tại Đại hội XII và gần đây nhất là Đại hội XIII của Đảng, ngoài những điểm kế thừa, bổ sung, phát triển các quan điểm của các đại hội trước, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm, đánh giá, nhận xét mới đối với tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Vấn đề hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta đã được khẳng định ở nhiều kỳ Đại hội. Đại hội XII một lần nữa Đảng ta nêu rõ là “tiếp tục” hoàn thiện “chính sách” và “pháp luật” về tín ngưỡng, tôn giáo. Như vậy, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được đặt ra thường xuyên, liên tục.

Hai là, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.  Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ khẳng định chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn chủ trương phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Ba là, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Quan điểm này được phát triển từ luận điểm trong Nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 16/10/1990. Bên cạnh đó, văn kiện Đại hội XIII còn chỉ ra yêu cầu phát huy văn hóa tôn giáo dân tộc thiểu số, xây dựng thiết chế văn hóa…

Bốn là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Vấn đề chống lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện ở mọi kỳ Đại hội của Đảng. Những vấn đề này ở Đại hội XII có hai điểm đáng lưu ý là (1) “chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và (2) “kiên quyết đấu tranh” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước.

4.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở việt nam hiện nay

Sự biến đổi của hệ thống tôn giáo tín ngưỡng nước ta là rất toàn diện và mạnh mẽ, tự nó cũng đặt ra những vấn đề mới trong quan hệ giữa luật pháp và tôn giáo. Từ những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, em đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện về công tác đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau:

Thứ nhất, pháp luật về tôn giáo phải được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu rộng quá trình thực hiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; kế thừa, phát triển những quy định còn phù hợp, mang tính khả thi được xã hội thừa nhận; khắc phục những hạn chế, bất cập, thiếu tính khả thi và không phù hợp với tình hình thực tiễn; bổ sung những quy định mới mà thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo đang đặt ra nhưng chưa có những quy định của pháp luật điều chỉnh.

Thứ hai, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức giáo hội, đặc biệt là vai trò của các chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo. Chủ động xây dựng quy chế phối hợp giữa các thành viên của hệ thống chính trị với tổ chức tôn giáo trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần thường xuyên tiếp xúc, nắm bắt nhu cầu, tâm tư tình cảm và tuyên truyền giáo dục các chức sắc, nhà tu hành và đồng bào có đạo nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.

Thứ ba, khuyến khích tổ chức các hoạt động tôn giáo đem lại những giá trị tích cực về văn hóa, đạo đức theo tôn chỉ, mục đích của mình, bao gồm cả các hoạt động có quy mô lớn mang tầm vóc quốc tế; khơi dậy trong đồng bào có đạo tinh thần yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, chung sức, chung lòng xây dựng quê hương, đất nước. 

Thứ tư, tiếp tục quán triệt thật sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; tạo được sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức đối với công tác tôn giáo của cả hệ thống chính trị trong tình hình mới. Bên cạnh đó, Đảng và chính quyền các cấp, các địa phương cần chủ động nắm bắt tình hình, tăng cường triển khai các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.

4.3. Một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở việt nam hiện nay

Từ những kiến nghị nêu trên, em đưa ra một số giải pháp nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho bảo đảm quyền công dân nói chung và quyền tự do tín ngưỡng như sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức. Tuyên truyền, đào tạo, giúp cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành nâng cao nhận thức về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; chức việc, tín đồ các tôn giáo phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; các sinh hoạt tôn giáo dần đi vào ổn định, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị về tôn giáo và công tác tôn giáo. Tổ chức học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết về công tác tôn giáo gắn với đẩy mạnh các phong trào, phong trào sống “tốt đời, đẹp đạo”. 

Thứ hai, tăng cường công tác tham mưu, quản lý nhà nước về tôn giáo. Cụ thể hóa, đảm bảo về mặt thủ tục hành chính và đúng trình tự công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo. Chính quyền các cấp thực hiện đúng vai trò quản lý Nhà nước về tôn giáo. Phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý các hoạt động tôn giáo của các ban, ngành chức năng, tạo điều kiện thuận lợi cho các chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo thực hiện các hoạt động tôn giáo đúng pháp luật và phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam. Các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ tuyên truyền, đấu tranh ngăn chặn các tà đạo, tổ chức bất hợp pháp. Tập trung đẩy mạnh công tác phát động quần chúng, xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về các chủ trương, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; vạch rõ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo; nâng cao nhận thức của quần chúng, phân biệt rõ tín ngưỡng, tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo.

Thứ ba, đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động công tác vận động chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo. Chính quyền các cấp cần chủ động, lắng nghe để hiểu tâm tư, nguyện vọng các tôn giáo, từ đó đáp ứng những nhu cầu chính đáng, hợp pháp của cá nhân, tổ chức tôn giáo. Củng cố, tăng cường xu hướng đối thoại hợp tác giữa các tôn giáo với chính quyền.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật cho người dân ở vùng đồng bào có đạo. Kêu gọi đầu tư và tăng cường thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao dân trí; tăng cường củng cố hệ thống chính trị, động viên quần chúng tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo”, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động từ thiện nhân đạo. Giải quyết kịp thời những đề nghị chính đáng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân tín đồ các tôn giáo, không để xảy ra các sự việc phức tạp liên quan đến tôn giáo.

Thứ năm, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và vận động các tín đồ trên tinh thần cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vận động các tín đồ thực hiện tốt các đường hướng hành đạo tiến bộ, gắn bó giữa đạo và đời, phát huy những nét đẹp truyền thống, những yếu tố tích cực, những điểm tương đồng trong các tôn giáo. Thực hiện tốt công tác chỉ đạo đấu tranh, ngăn chặn đối với các tà đạo, các hoạt động mê tín dị đoan.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng đông tôn giáo. Xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện những hành vi trái pháp luật.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, Nhà nước một mặt tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đồng thời nghiêm cấm các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện những hành vi gây phương hại đến lợi ích dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.

Từ khi được hình thành đến nay, quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người luôn xuyên suốt qua các thời kỳ luật pháp. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo cơ sở vững chắc để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, giúp nhân dân có cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Không chỉ thế, pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đang ngày một tiệm cận với hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trên thế giới, phù hợp với những điều ước của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Về mặt lý luận, bài báo cáo đã đưa ra khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; vai trò của Nhà nước trong công tác đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như những tác động qua lại trong mối quan hệ giữa tôn giáo và Nhà nước. 

Về mặt thực tiễn, thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đánh giá dựa trên những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. Qua đó thấy được những thành tựu đạt được, đồng thời cả những mặt hạn chế cần khắc phục. 

Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, bài báo cáo đưa ra những quan điểm để hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đưa ra những kiến nghị và giải pháp cụ thể. Bởi chỉ khi hệ thống pháp luật được hoàn thiện, công tác quản lý của Nhà nước được nâng cao thì mới có thể đảm bảo một cách toàn diện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

VĂN BẢN PHÁP QUY

  1. Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb Lao động, Hà Nội.
  5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Nxb Lao động, Hà Nội.
  6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Nxb Lao động, Hà Nội.
  7. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Nxb Lao động, Hà Nội.
  8. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Nxb Lao động, Hà Nội.
  9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  11. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật tín ngưỡng tôn giáo (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014),  Luật Xây dựng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  15. Văn phòng Thủ tướng chính phủ (2017), Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ

  1. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán- Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  2. GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.
  3. GS.TS. Văn Tân (1991), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  4. GS. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Khoa Học Xã Hội Hà Nội.
  5. TS. Vũ Chiến Thắng (2021), Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng trong tình hình mới, Tạp chí tổ chức nhà nước.

[1]  Điều 24 Hiến pháp Việt Nam 2013

[2]  Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán- Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 283.

[3] Văn Tân (chủ biên) (1991), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

[4] Điều 2 Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016.

[5] Đặng Nghiêm Vạn (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Khoa Học Xã Hội Hà Nội.

[6] Văn Tân (chủ biên) (1991), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

[7] Điều 2 Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016.                                                                 

[8]  Chương 2 Điều 10 Hiến pháp năm 1946.

[9]  Chương 3 Điều 26 Hiến pháp năm 1959.

[10] Chương 5 Điều 68 Hiến pháp năm 1980.

[11] Chương 5 Điều 70 Hiến pháp năm 1992.

[12] Chương 2 Điều 24 Hiến pháp năm 2013.

[13] Điều 1 Luật Phân Ly Pháp 1905.

[14] Điều 2 Luật Phân Ly Pháp 1905.

[15] GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, tr.95.

[16] De Lanessan, Những nguyên tắc chế độ thuộc địa (Principes de colonization)

[17]  Điều 21 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016

[18] Điều 37 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016

[19] Khoản 2 Điều 2 Thông tư 153/2011/TT-BTC Hướng dẫn về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

[20] Điểm a Khoản 3 Điều 52 Luật Xây dựng 2014.

[21] Khoản 2 Điều 16 Nghị định 162/2017 NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật tín ngưỡng, tôn giáo.

[22] Khoản 3 Điều 7 Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016.

[23] Điểm d Khoản 1 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.

[24]  Điều 52 Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016.

[25]  Điều 48 Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016.

[26] Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016.

[27] Điểm a Khoản 1 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.

[28] Điểm c Khoản 1 Điều 116 Bộ luật Hình sự 2015.

[29] Khoản 1 Điều 164 Bộ luật Hình sự 2015.

[30] Khoản 1 Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015

[31] Bộ Ngoại giao (2017), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, tr.22.

[32] TS Vũ Chiến Thắng (2021), Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng trong tình hình mới, Tạp chí tổ chức Nhà nước.

[33] Bộ Ngoại giao (2017), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, tr.19.

Bài viết cùng chuyên mục:

1900.0191