Đã qua 9 năm thì có được trình báo về tội trộm cắp không

Câu hỏi của khách hàng: Đã qua 9 năm thì có được trình báo về tội trộm cắp không

Em có một sự việc cần được tư vấn như sau ạ.

Cách đây 9 năm, năm 2009, chồng em có đánh nhau với người anh họ do xích mích gia đình. Cả hai cùng vật lộn nhau ở ngoài đường và không bước chân vào đến cửa nhà người anh đó. Vụ việc đánh nhau đã được công an xã giải quyết giảng hòa 2 bên vài ngày sau đó. Tuy nhiên, cách đây vài ngày, người anh đó lại đưa đơn lên công an xã trình báo là chính ngày hôm xảy ra đánh nhau đó, nhà anh bị mất tiền, 2 cây vàng và 2 sổ tiết kiệm.

Vậy luật sư cho em hỏi là thời hiệu để trình báo lên công an khi mất trộm là bao lâu, nếu qua 9 năm rồi thì công an có còn tiếp nhận vụ việc nữa không?

Nếu công an tiếp nhận vụ việc và giả sử chồng em bị quy tội ăn trộm thì hình phạt, mức phạt và đền bù cho người bị trộm thế nào ạ, tiền đền bù có tính thêm lãi suất từ ngày xảy ra vụ trộm cho đến giờ không ạ?

Mong nhận được tư vấn của Luật sư ạ.

Em xin cảm ơn.


Luật sư Tư vấn Bộ luật hình sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 31/10/2018

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tội trộm cắp

Bộ luật hình sự năm 1999

3./ Luật sư trả lời Đã qua 9 năm thì có được trình báo về tội trộm cắp không

Hành vi trộm cắp là một hành vi phạm tội khi một người hoặc một nhóm người lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật, đối tượng tác động có thể là tiền, dịch vụ, thông tin,… mà không có sự cho phép của chủ nhân.  Pháp luật hình sự Việt Nam hiện tại quy định tội trộm cắp tài sản như sau:

Trong trường hợp bạn đưa ra, hành vi trộm cắp được xảy ra vào năm 2009, do vậy, việc nhận định hành vi này chịu trách nhiệm hình sự như thế nào sẽ được căn cứ vào Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự).

Căn cứ Điều 138 Bộ luật hình sự:

Điều 138.Tội trộm cắp tài sản

1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

… e)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; …

3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; …

4.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; …”

Theo đó, tùy vào giá trị tài sản mà người có hành vi trộm cắp chiếm đoạt, hình phạt đối với người có hành vi sẽ khác nhau.

Dựa vào khung hình phạt mà các chủ thể có thẩm quyền áp dụng, thời hiệu truy cứu hành vi phạm tội sẽ khác nhau. Căn cứ Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự:

“… 3.Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. …”

Theo đó, hành vi trộm cắp có thể là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng,tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Mà theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự:

“… 2.Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

a)Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

b)Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

c)Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

d)Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3.Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. …”

Nói cách khác, nếu số tài sản trộm cắp dưới năm trăm nghìn đồng (và việc trộm cắp không gây hậu quả nghiêm trọng, người phạm tội không đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt/bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích) thì sau thời gian 9 năm, người phạm tội mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Những trường hợp còn lại, người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định.

Trong trường hợp trách nhiệm của bên phạm tội được Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định nhẹ hơn quy định trên thì các quy định tại Bộ luật sửa đổi sẽ được áp dụng.

Tuy nhiên, bạn phải chú ý, trong trường hợp của bạn, việc bên kia trình báo lên công an không phát sinh trách nhiệm của bạn. Phía công an là chủ thể đầu tiên tham gia xác minh, điều tra sự thật khách quan. Việc công an tiếp nhận đơn trình báo của bên kia không đồng nghĩa với việc chồng của bạn sẽ bị truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Trong trường hợp phía cơ quan chức năng quy tội trộm cắp cho chồng bạn thì chồng bạn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng (hình phạt bổ sung) cùng với hình phạt tù từ 2 năm trở lên.

Nhưng, việc trả lại tiền cho bên kia lại là nghĩa vụ dân sự, không phải hình sự. Các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc trả lại số tiền trên. Pháp luật sẽ không điều chỉnh việc này.

Như vậy, trong trường hợp của bạn, việc chồng bạn có bị truy cứu trách nhiệm hay không khi sự việc được cho là đã xảy ra cách đây 9 năm, cũng như trách nhiệm mà chồng của bạn sẽ phải gánh chịu sẽ phụ thuộc vào tổng giá trị của những tài sản đó theo điều tra của các chủ thể có thẩm quyền. Việc trả lại số tiền trên sau khi chồng bạn bị kết án hiện tại không được pháp luật điều chỉnh.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

1900.0191