Hội thảo “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp”

Hội thảo “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp”

23/12/2008

Cần có bước đi thận trọng và vững chắc theo đúng tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Minh Triết, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách tư pháp về việc lấy ý kiến góp ý dự thảo Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp đã tổ chức các cuộc Hội thảo về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp” tại Đà Nẵng (ngày 23 và 24-10-2008), Hà Nội (ngày 14-11-2008), thành phố Hồ Chí Minh (ngày 21 và 22-11-2008) và Yên Bái (ngày 02-12-2008).

Trong các cuộc Hội thảo, các chuyên gia pháp luật của các cơ quan tư pháp, tỉnh/ thành ủy, viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức luật sư… đã bàn thảo tổng thể và toàn diện các nội dung về đổi mới mô hình tổ chức của tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, về đổi mới bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát theo định hướng cải cách tư pháp. Nổi bật lên các vấn đề tranh luận và có nhiều ý kiến khác nhau là vị trí, tầm quan trọng của các Đề án, mục đích của Đề án, hệ thống tổ chức tòa án được tổ chức theo ba cấp (tòa sơ thẩm khu vực, tòa phúc thẩm và tòa án tối cao) hay bốn cấp (tòa sơ thẩm khu vực, tòa phúc thẩm, tòa thượng thẩm và tòa án tối cao); tòa án phúc thẩm tổ chức có phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp tỉnh không; viện kiểm sát có tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp; viện kiểm sát giữ nguyên mô hình tổ chức như hiện nay là cơ quan độc lập, do Quốc hội lập ra, hay viện kiểm sát chuyển thành viện công tố trực thuộc Chính phủ;…

Một số vấn đề chung

Vị trí, tầm quan trọng của việc xây dựng các Đề án

Tất cả ý kiến đại biểu đều đánh giá vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng và triển khai các Đề ánđổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp. Đây là các Đề án ảnh hưởng trực tiếp đến mô hình tố tụng, cơ cấu tổ chức nội bộ các ngành tòa án, kiểm sát, thay đổi lớn về thẩm quyền và tác dụng đến quyền lợi của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp… Việc xây dựng và triển khai các Đề án này cần đặt trong mối quan hệ với việc củng cố, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Do vậy, các Đề án cần được nghiên cứu để xây dựng hết sức thận trọng, có những bước đi vững chắc theo đúng tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và cơ sở thực tiễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đồng thời xác định các mục tiêu mang tính chiến lược, với tầm nhìn tương đối dài hạn nhằm tạo sự chuyển biến đột phá trong công cuộc đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Cũng liên quan đến nội dung này, nhiều đại biểu cho rằng cần có thêm thời gian để tiếp tục hoàn thiện các Đề án và cần có sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia pháp luật, tư pháp mang tính toàn diện, đầy đủ và trọng tâm hơn nữa về từng nội dung của các Đề án.

Mục đích của việc xây dựng các Đề án

Nhiều ý kiến cho rằng mục đích của việc xây dựng Đề án mới chỉ chú trọng vào các nội dung liên quan đến các quyền lợi của ngành kiểm sát và toà án, mà chưa đề cập cụ thể và trực tiếp một cách thỏa đáng khi Đề án này được triển khai thì sẽ có tác động như thế nào đến quyền lợi của người dân, người dân được gì, họ có được thụ hưởng lợi ích từ việc cải cách tư pháp này không… là các vấn đề các đại biểu cân nhắc, phân vân.

Nhiều ý kiến cho rằng mục đích cải cách tư pháp lớn nhất của lần này phải chú trọng đến yếu tố con người trong các cơ quan tư pháp, đây là yếu tố cốt lõi, không nên chỉ chú trọng về mặt thay đổi mô hình tổ chức.

Cũng về mục đích của Đề án, nhiều ý kiến cho rằng việc cải cách tư pháp lần này là để đảm bảo hơn nữa tính độc lập của Tòa án, tuy nhiên trong Đề án chưa thực sự đưa ra một tư duy đổi mới về việc xây dựng một mô hình hệ thống tòa án độc lập, tổ chức theo thẩm quyền, mà đơn thuần chỉ là sự sáp nhập các tòa. Đồng thời, nhiều đại biểu cũng đặt câu hỏi về sự độc lập xét xử của tòa án, độc lập khi xét xử hay cả trước và sau khi xét xử, đây là vấn đề cần phải tiếp tục được lý giải.

Mối liên hệ giữa đổi mới cơ quan tư pháp và xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa

Điều 2 Hiến pháp 1992 của Nhà nước ta xác định: “…Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Viện kiểm sát và Tòa án là 02 trong 05 hệ thống cơ quan trong tổ chức bộ máy được quy định trong Hiến định (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát). Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, cả hai Đề án đều chưa đề cập đầy đủ nội dung: Nếu có sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát sẽ có tác động như thế nào đến các hệ thống cơ quan khác, chưa dự liệu sự thay đổi mối liên hệ tác động giữa các cơ quan… Chẳng hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ và Viện kiểm sát nếu tiến hành xây dựng mô hình Viện Công tố, sự độc lập của Tòa án với sự giám sát của Quốc hội như thế nào,…

Công tác nghiên cứu lý luận về lĩnh vực tư pháp

Còn có rất nhiều ý kiến khác nhau về nghiên cứu lý luận các vấn đề tư pháp của Việt Nam, thực sự tư pháp của Việt Nam có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác hẳn các nước khác (sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử, mô hình Viện kiểm sát đặc thù,…), trong khi đó chúng ta chưa thực sự có một công trình nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng toàn diện, cụ thể các vấn đề và đưa ra một nhận định chính xác về bản chất, cốt lõi của nền tư pháp Việt Nam, để từ đó đưa ra các giải pháp đổi mới, khắc phục những bất cập hiện nay; đồng thời việc tiếp thu, chọn lọc kinh nghiệm pháp luật, tư pháp nước ngoài vẫn còn mang tính dàn trải, chưa có sự chuyên sâu, chưa có sự tổng kết toàn diện…

Nhận thức chung về vị trí của quyền tư pháp nói chung, hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng trong mối quan hệ với cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước còn chưa thật đầy đủ. Chưa thấy rõ vai trò của các cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội và giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Dự kiến kế hoạch và nguồn lực thực hiện các Đề án

Đa số ý kiến của các nhà khoa học và luật sư cho rằng kế hoạch thực hiện và nguồn lực hiện nay chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đề ra, cần có thời gian cân nhắc thêm, đảm bảo đầy đủ các yếu tố cần thiết và chọn thời điểm chín muồi để triển khai đồng bộ và toàn diện các nội dung của Đề án.

Đa số ý kiến đại diện các cơ quan tư pháp, tỉnh/ thành ủy địa phương ủng hộ việc sớm triển khai các nội dung của Đề án.

Một số nội dung lớn

Tổ chức hệ thống tòa án khu vực

“Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” (Trích Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị). Các ý kiến đều thống nhất cần phải đổi mới tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính như nội dung đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tuy nhiên đi vào cơ cấu tổ chức các cấp tòa án, có nhiều ý kiến khác nhau:

– Đa số ý kiến của các nhà khoa học, luật sư cho rằng cần tổ chức hệ thống tòa án khu vực thành 03 cấp: Tòa Sơ thẩm khu vực: Không phụ thuộc đơn vị hành chính cấp huyện, tỉnh; Tòa Phúc thẩm: Không phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp tỉnh; Tòa án tối cao.

Các ý kiến này cho rằng đây là phương án triệt để, đổi mới căn bản tư duy từ cách thức tổ chức tòa án theo đơn vị hành chính sang tổ chức theo thẩm quyền xét xử, phù hợp với mô hình các nước tổ chức tòa án theo thẩm quyền. Đồng thời, tổ chức theo 03 cấp như vậy mới tăng “sức mạnh”, sự độc lập thực sự cho tòa án, mới thực sự là cải cách với mục đích là thay đổi căn bản một mô hình tòa án.

Về sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử: Các ý kiến này cho rằng dù tòa án tổ chức theo mô hình như thế nào thì vẫn tìm ra phương án để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử.    

– Đa số ý kiến đại diện các cơ quan tư pháp, tỉnh/ thành ủy địa phương cho rằng cần tổ chức hệ thống tòa án khu vực thành 04 cấp: Tòa Sơ thẩm khu vực: Không phụ thuộc đơn vị hành chính cấp huyện, nhưng trong phạm vi địa giới cấp tỉnh; Tòa Phúc thẩm: Tổ chức lại trên cơ sở toà án cấp tỉnh hiện nay; Tòa Thượng thẩm; Tòa án tối cao.

Các ý kiến này cho rằng đây là phương án không tạo ra nhiều sự xáo trộn, là một bước đi phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Phương án này cơ bản vẫn đảm bảo sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương (cấp ủy tỉnh), sự giám sát của cơ quan dân cử. Đồng thời, việc thêm cấp Tòa án Thượng thẩm trực tiếp giải quyết các công vụ việc (theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm) của Tòa án nhân dân tối cao hiện nay, từ đó, để Tòa án tối cao chủ yếu tập trung vào công tác giải thích pháp luật, hướng dẫn các vụ án,…

– Có ý kiến ủng hộ tổ chức hệ thống tòa án khu vực thành 03 cấp (Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao): Tuy nhiên, theo phương án này, Tòa án sơ thẩm khu vực phải xét xử tất cả các loại vụ, việc nhưng thực tế Việt Nam hiện nay không phải tất cả các thẩm phán Tòa án sơ thẩm đều đảm đương được. Do vậy, ý kiến này cho rằng thẩm phán Tòa án sơ thẩm khu vực cần phân thành 2 cấp: Thẩm phán cấp 1, xét xử các vụ án hình sự dưới 15 năm; Thẩm phán cấp 2, xét xử các vụ án từ 15 năm trở lên.

Thẩm quyền của Tòa án Thượng thẩm

Hầu hết các đại biểu đồng ý tổ chức tòa án có 4 cấp đều cho rằng: Tòa án Thượng thẩm có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của của Tòa án phúc thẩm. Và giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa án phúc thẩm bị kháng nghị. Bởi, phương án này mới đảm bảo không dồn việc lên Tòa án tối cao, Tòa án tối cao chỉ tập trung vào giải thích pháp luật, hướng dẫn các vụ án,…

Chức năng của Viện kiểm sát

Đa số ý kiến đồng ý với Dự thảo Đề án “Viện kiểm sát cần tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, không nên bỏ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Bởi thực sự thiết chế Viện kiểm sát là một đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thiết chế này góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; đồng thời, nếu bỏ chức năng “kiểm sát các hoạt động tư pháp” của Viện kiểm sát thì đặt chức năng này ở đâu? Cơ quan nào có thể đảm nhận và nếu đảm nhận thì có tốt hơn so với Viện kiểm sát không? Trong khi Viện kiểm sát hiện thời có đầy đủ bộ máy, con người và kinh nghiệm để thực thi chức năng kiểm sát tư pháp.

Một số ý kiến khác cho rằng cần nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố trực thuộc Chính phủ phù hợp với yêu cầu đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát

Đa số các ý kiến cho rằng hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát phải tương đương với hệ thống tổ chức của tòa án khu vực.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng Viện kiểm sát khu vực không nên tổ chức tương đương với Tòa án sơ thẩm khu vực, mà cần phải tổ chức tương đương với cơ quan điều tra.

Sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử đối với Tòa án và Viện kiểm sát

Đa số ý kiến các nhà khoa học, luật sư cho rằng cần đổi mới mạnh mẽ cơ chế lãnh đạo của Đảng, nên đồng tình phương án: Thành lập Đảng bộ ngành Tòa án (trực thuộc Bộ Chính trị) lãnh đạo, chỉ đạo tòa án các cấp.

Đa số ý kiến các đại diện các cơ quan tư pháp, tỉnh/thành ủy địa phương cho rằng sự lãnh đạo của Đảng cần cơ bản giữ nguyên như hiện nay.

Một số vấn đề khác

– Xây dựng các Đề án không nên chỉ chú trọng vào mô hình tổ chức, việc đổi mới cần phải chú trọng vào yếu tố con người: tuyển chọn đầu vào tốt; nâng cao trình độ của các cán bộ tư pháp; đào tạo thường xuyên, chuyên sâu; chế độ đãi ngộ; công tác điều chuyển;…

– Về lộ trình thực hiện các Đề án và sửa đổi Hiến pháp: Nhiều ý kiến cho rằng việc thay đổi hẳn mô hình tổ chức tòa án và đặt ra một cấp tòa án mới (Tòa án Thượng thẩm) là vấn đề lớn và cần phải được điều chỉnh bởi Hiến pháp và cần tiến hành sửa đổi Hiến Pháp. Và sau khi sửa đổi Hiến Pháp, thì tiến hành triển khai các nội dung của các Đề án một cách đồng loạt, toàn diện, không làm thí điểm.

Ý kiến khác thì cho rằng không cần sửa đổi Hiến Pháp, có thể tiến hành làm thí điểm.

– Nhiều ý kiến cho rằng cần đổi mới các thủ tục tố tụng để thực sự tuân thủ nguyên tắc hai cấp xét xử, giảm thiểu tối đa thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở các cấp tòa án.

– Nhiệm kỳ của thẩm phán, kiểm sát viên: Các ý kiến đều cho rằng cần tăng thời hạn nhiệm kỳ lên thành 7 đến 10 năm. Một số ý kiến cho rằng cần bổ nhiệm suốt đời.

Hà Thanh Sơn

1900.0191