Người bào chữa với việc thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
26/05/2016
Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt BTTHS) năm 2015 là một bước phát triển quan trọng của ngành luật tố tụng hình sự ở nước ta, đã khắc phục được những thiếu sót quan trọng đối với việc bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đặc biệt bổ sung những quy định mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội góp phần cùng Hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn vụ án. Với những sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ, việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, đã thể hiện sự dân chủ hơn trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, vừa tạo điều kiện tốt hơn để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nhất là người bào chữa thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn và có hiệu quả hơn các quy định pháp luật tố tụng. Rất nhiều điều luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng chi tiết hơn liên quan đến thu thập chứng cứ, như: Quyền thu thập và đưa ra chứng cứ của người bào chữa; phương thức thu thập chứng cứ của người bào chữa; nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu kịp thời cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, quyền của người bào chữa được tham dự trong các buổi hỏi cung bị can và quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện một số hoạt động để làm sáng tỏ thêm chứng cứ vụ án như yêu cầu đối chất, nhận dạng, xem xét các dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám định… Với các quy định trên, nhà làm luật hy vọng rằng quá trình giải quyết các vụ án hình sự được tiến hành nhanh chóng, khách quan, dân chủ và đúng pháp luật, không làm oan người không phạm tội, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể, một số quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, như sau: Được thu thập, đưa ra chứng cứ (Điểm h khoản 1 Điều 73); Có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều 88). Ngoài ra, theo quy định tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, mà theo đó, nội dung của Bản án sơ thẩm phải ghi rõ: Ý kiến của người bào chữa và phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra.
Thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về thu thập, cung cấp chứng cứ của người bào chữa cho thấy, chỉ những chứng cứ về các tình tiết giảm nhẹ có xác nhận đầy đủ thì Tòa án mới chấp nhận, còn các chứng cứ liên quan đến việc định tội, định khung hình phạt thường bị “xem nhẹ”, dẫn đến Hội đồng xét xử bác bỏ đề nghị của người bào chữa bằng các cụm từ thường dễ bắt gặp trong nhiều bản án, đó là “không có căn cứ”, “không có cơ sở xem xét” mà không phân tích, không đánh giá vì sao không chấp nhận chứng cứ mà người bào chữa đã tốn biết bao thời gian, công sức “lặn lội” thu thập, giao nộp cho Tòa để chứng minh cho yêu cầu của mình. Thực trạng này được lý giải bởi nguyên nhân sau: Điều 58 BLTTHS năm 2003 cho phép luật sư được quyền thu thập, đưa ra tài liệu, đồ vật để chứng minh yêu cầu, nhưng lại thiếu cơ chế bảo đảm các quyền đó được “thực thi” triệt để, được tôn trọng đúng mực, cũng như chưa có quy định rõ bắt buộc cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá, kết luận có chấp nhận đề nghị của người bào chữa dựa trên các chứng cứ được thu thập bảo đảm tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ. Mặt khác, Điều 64 và Điều 65 BLTTHS năm 2003, quy định đồ vật, tài liệu chỉ được xem là chứng cứ khi được cơ quan tố tụng thu thập theo trình tự, thủ tục luật định. Quy định này đồng nghĩa với việc chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ. Chính vì vậy, vô hình trung tài liệu, đồ vật, chứng cứ mà người bào chữa cung cấp, một khi chưa được Tòa án chấp nhận thì chưa phải là chứng cứ. Tức là Tòa án không bị ràng buộc bởi quy định phải đánh giá chứng cứ nên thực tiễn giải quyết án thời gian qua ở một số Tòa án, nhất là ở cấp sơ thẩm có thể lý giải vì sao có tình trạng Tòa án xem nhẹ chứng cứ do người bào chữa cung cấp hoặc bỏ qua những chứng cứ đó hoàn toàn không đề cập trong bản án. Khắc phục hạn chế này, quy định bổ sung tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, như trên đã nêu, chắc chắn người bào chữa tham gia bào chữa cho người bị buộc tội sẽ thật sự “tâm phục, khẩu phục” việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị người bào chữa dựa trên các chứng cứ, tài liệu công khai kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa , trong đó có chứng cứ chính do người bào chữa thu thập, cung cấp giúp cho HĐXX giải quyết vụ án thật khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người không có tội.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, một thực tế đang tồn tại dù không thật sự phổ biến nhưng cũng không phải là ít, đó là, tâm lí chung của không ít thẩm phán, nhất là thẩm phán trẻ thường tỏ ra nghi ngờ các chứng cứ mà người bào chữa trực tiếp đi thu thập, cung cấp cho Tòa án, nếu không muốn nói họ có “định kiến” không tốt với người bào chữa khi giao nộp chứng cứ có ý nghĩa gỡ tội đối với người bị buộc tội! Tâm lí này được hình thành từ thực tiễn áp dụng các quy định về chứng cứ của BLTTHS năm 2003 chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng in-tơ-nét, từ các thiết bị điện tử.
Một vấn đề khác cũng cần trao đổi, đó là, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015:“Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập”. Tác giả cho rằng, đây là quy định mang tính tiến bộ và có ý nghĩa rất tích cực nhằm tạo điều kiện tối đa để người bào chữa thực hiện tốt quyền thu thập chứng cứ mà nhà làm luật đã trao cho họ, với kỳ vọng tạo sự cân bằng cần thiết giữa buộc tội và gỡ tội mà trong chừng mực nào đó chưa được những người thực thi công lý đảm bảo một cách triệt để. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận nội dung quy định tại khoản 3 Điều 81 của Bộ luật này như vừa nêu, theo tác giả, cũng chưa thật sự tạo được thế “cân bằng” như nhà làm luật mong muốn, bởi lẽ, người bào chữa sau khi vất vã “chạy ngược, chạy xuôi” làm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể thu thập được chứng cứ mà theo họ là cần thiết, do vậy, họ mới chọn giải pháp cuối cùng đề nghị sự hỗ trợ của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng này ngoài việc tiếp nhận đề nghị của người bào chữa mà “chậm chạp” triển khai hoặc triển khai mang tính “lấy lệ” việc thu thập chứng cứ, nên kết quả thu thập chứng cứ rơi vào trường hợp “có cũng như không” thì người bào chữa phải làm sao? Hoặc sau khi cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận đề nghị của người bào chữa, có văn bản trả lời với nội dung chứng cứ, tài liệu mà người bào chữa đề nghị thu thập là không cần thiết trong giải quyết vụ án, thì sao? Hoặc nêu ra những lý do trở ngại nào đó mà không tiến hành thu thập chứng cứ, khi người bào chữa thắc mắc, thì được trả lời họ không có nghĩa vụ ra thông báo phản hồi kết quả thu thập chứng cứ vì pháp luật không quy định nghĩa vụ phải thông báo phản hồi!? Như vậy, thiết nghĩ để quy định này của luật đi vào cuộc sống và thật sự mang lại niềm tin vào công lý của người dân nói chung và người bào chữa nói riêng, theo quan điểm của tác giả, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của HĐXX nếu không thật sự khách quan trong xem xét đánh giá chứng cứ, để hướng đến mọi chứng cứ buộc tội hay gỡ tội nếu được thu thập đúng luật đều có giá trị pháp lý, đều được đánh giá công bằng trước khi Tòa án đưa ra phán quyết. Mặt khác, cũng cần quy định chế tài rõ ràng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí, cố ý không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của người bào chữa mà không có lý do chính đáng trừ trường hợp chứng cứ tài liệu đó thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải cung cấp. Đồng thời cũng quy định trách nhiệm cụ thể của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án mà lơ là, không công tâm, thiếu trách nhiệm trong thực hiện đề nghị của người bào chữa về thu thập chứng cứ, mà không có lý do chính đáng.
Bên cạnh đó, việc xem xét đánh giá chứng cứ do người bào chữa cung cấp ở giai đoạn phúc thẩm cũng cần quan tâm trao đổi, bởi không phải bất kỳ vụ án nào cũng đều có luật sư tham gia bào chữa cho người bị buộc tội, và cũng không phải hễ có người bào chữa là họ tham gia tố tụng ngay từ đầu, mà có thể sau khi có kết luận điều tra hoặc sau khi có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát hoặc sau khi hồ sơ vụ án được chuyển sang Tòa cấp sơ thẩm hoặc sau khi có kháng cáo của bị cáo, bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát, thì người bào chữa mới xuất hiện. Và như vậy, nếu như ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, người bào chữa mới có điều kiện tiến hành thu thập thêm chứng cứ và giao nộp chứng cứ thu thập được cho Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 353 BLTTHS năm 2015. Nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 260 BLTTHS năm 2015, nhà làm luật lại không bắt buộc bản án phúc thẩm phải có những nội dung như tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, nghĩa là có thể hiện đầy đủ ý kiến của người bào chữa và phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của người bào chữa đưa ra. Dù theo khoản 2 Điều 353 BLTTHS năm 2015, có quy định: “Bản án phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới.”, nhưng quy định này không đồng nghĩa với việc Hội đồng xét xử phúc thẩm phải phân tích, đánh giá tính có căn cứ hay không có căn cứ pháp lý những chứng cứ mà người bào chữa đã thu thập. Theo quan điểm của tác giả, sự thiếu nội dung quy định như vừa nêu, liệu có lặp lại thực trạng đáng buồn mà nhiều người bào chữa trong các vụ án hình sự thời gian qua ca than rằng, Tòa án không chấp nhận đề nghị trên cơ sở chứng cứ người bào chữa cung cấp, nhưng cũng không phân tích, giải thích vì sao!
Thu thập chứng cứ được hiểu là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu quả sử dụng. Như vậy, chứng cứ cần phải có sự ghi nhận theo thủ tục tố tụng hình sự mới có thể sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm. Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định: “ Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.”
Cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh tội phạm nếu không đưa ra được những chứng cứ để chứng minh tội phạm một cách khách quan và toàn diện. Do vậy, quá trình thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng đối với cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy mà Điều 85 BLTTHS năm 2015, quy định khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh: “Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không ít các Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ thường chỉ quan tâm đến việc thu thập các chứng cứ xác định có tội, mà thường rất ít chú ý đến việc thu thập các chứng cứ theo hướng vô tội, với những trường hợp như vậy, việc thu thập chứng cứ không được tiến hành một cách khách quan và toàn diện dẫn đến tình trạng vị phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội. Điều này đã gây nên không ít bức xúc, sai lầm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự thời gian qua.
Mặt khác, mục đích của người bào chữa đưa ra chứng cứ khác với các cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi vì người bào chữa trước hết là người bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa còn góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án. Thông thường những chứng cứ mà người bào chữa thu thập thường mang giá trị “gỡ tội” đúng với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của người bào chữa như vậy mới có giá trị phản biện và làm đối trọng (một phần hoặc toàn bộ) chứng cứ “buộc tội” của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để bào chữa có hiệu quả, người bào chữa sẽ có những kiến nghị cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định khác nhau như điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị nêu trong bản luận tội của Viện kiểm sát để Hội đồng xét xử cân nhắc khi định tội danh, quyết định hình phạt cho bị cáo.
Để thực hiện được điều đó, việc đánh giá chứng cứ có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa pháp lý rất lớn đối với việc lựa chọn các chứng cứ đưa vào sử dụng làm căn cứ buộc tội hay bác bỏ sự buộc tội trong quá trình tố tụng. Đây là một khâu của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó những người tiến hành tố tụng và người bào chữa thực hiện việc xác định giá trị của các tài liệu, vật chứng đã thu thập được nhằm chứng minh những vấn đề cần thiết trong vụ án cụ thể. Đánh giá chứng cứ là quá trình hoạt động phân tích của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án hình sự. Như vậy, có thể thấy rằng đánh giá chứng cứ là hoạt động của con người trong tố tụng hình sự và hoạt động này thể hiện quan điểm, nhận thức, tư duy của người tiến hành tố tụng. Vì vậy, có thể thấy rằng, việc đánh giá chứng cứ sẽ phần nào chịu ảnh hưởng bởi tư cách tố tụng, trình độ chuyên môn, khả năng nhận thức, tư duy của mỗi người, phụ thuộc vào cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và ý thức pháp luật XHCN. Thực tiễn cho thấy, vấn đề đánh giá chứng cứ là rất phức tạp, bởi cùng một chứng cứ, cùng một hồ sơ vụ án hoặc cùng một tình tiết nhưng quan điểm đánh giá giữa các thẩm phán trong cùng HĐXX cũng khác nhau, hoặc giữa thẩm phán với kiểm sát viên, người bào chữa khác nhau là chuyện bình thường và ngay cả HĐXX cấp sơ thẩm nhiều trường hợp nhận định, đánh giá chứng cứ so với HĐXX phúc thẩm cũng rất khác nhau.
Các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mới chỉ là nguồn chứng cứ. Người tiến hành tố tụng phải sàng lọc, phân loại, đánh giá tài liệu nào, lời khai nào, vật chứng nào, kết luận giám định nào… được coi là chứng cứ. Tiêu chí để coi một hay nhiều nguồn chứng cứ là chứng cứ, khi chứng cứ đó phải có tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chúng. Không đáp ứng được ba tiêu chí trên chúng không được coi là chứng cứ và không được sử dụng để chứng minh tội phạm mặc dù chúng đang tồn tại trong hồ sơ vụ án, cụ thể:
– Tính hợp pháp của chứng cứ: Khi tiến hành đánh giá chứng cứ phải rà soát để xác định tính hợp pháp của chứng cứ, những chứng cứ đó được phát hiện, thu thập thế nào, có tuân thủ theo các quy định của pháp luật TTHS hay không. Ví dụ: Khi tiến hành thu thập lời khai của bị can bị cáo là người chưa thành niên, hay người có nhược điểm về mặt thể chất và tâm thần mà không có sự chứng kiến của người đại diện hợp pháp, hay trong quá trình lấy lời khai bị can bị cáo bị ép cung, bức cung… thì khi đánh giá chứng cứ những lời khai trên sẽ không được coi là chứng cứ.
Đối với tài liệu đọc được, nghe, nhìn được thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Tài liệu nghe được, nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình. Đối với vật chứng thì phải là hiện vật gốc và phải được bảo quản, giữ gìn để giữ đúng đặc tính. Đối với lời khai của đương sự, người làm chứng, phải được ghi thành văn bản hoặc ghi âm, ghi hình theo quy định của pháp luật hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. Đối với kết luận giám định thì phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo thủ tục luật định. Đối với biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ thì phải được tiến hành theo thủ tục do luật định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định. Kết quả thẩm định, thẩm định giá tài sản thì phải được tiến hành theo thủ tục luật định hoặc do chuyên gia về giá cung cấp.
Tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ. Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ các tài liệu, vật chứng đã thu thập được phải phán ánh quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ, các chứng cứ đó có liên quan đến vụ án hình sự đang được giải quyết hay không; các chứng cứ đó có giá trị và ý nghĩa thế nào trong mối quan hệ với đối tượng chứng minh? Do vậy, khi đánh giá chứng cứ phải đánh giá từng chứng cứ, xác định giá trị của chứng cứ đó, tức là chứng cứ đó chứng minh cho đối tượng nào của vụ án, hiệu quả cao hay thấp, đánh giá mối quan hệ giữa các chứng cứ đối chiếu với thực tế khách quan xem có phù hợp hay không. Sau đó đánh giá toàn bộ chứng cứ để rút ra kết luận về vụ án.
Khi đánh giá chứng cứ, người tiến hành tố tụng phải đánh giá tổng hợp chứng cứ, xác định xem xét toàn bộ chứng cứ thu thập được đã đầy đủ chưa, đã đủ cơ sở để chứng minh tội phạm hay chưa. Ngoài ra, khi đánh giá chứng cứ người tiến hành tố tụng cần phải có niềm tin nội tâm để có sự tin tưởng vào kết luận mà mình đưa ra là đúng. Niềm tin nội tâm được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, nó phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, sự từng trải cũng như trách nhiệm, lương tâm của người tiến hành tố tụng… Niềm tin nội tâm sẽ không thể chính xác nếu người tiến hành tố tụng không có những kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp hoặc thiếu đi sự vô tư khách quan khi đánh giá sự việc.
Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội người bào chữa sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên trong tố tụng; người bào chữa phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ và đánh giá chứng cứ nhằm bác lại những quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, có thể nói, người bào chữa có vai trò rất quan trọng cùng với những người tiến hành tố tụng khác trong việc đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự.
Trong toàn bộ quy trình tố tụng, giai đoạn xét xử đóng vai trò trung tâm trong việc đánh giá chứng cứ, đây là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc chứng minh sự thật của vụ án. Phiên toà là nơi toà án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Toà án quyết định giải quyết vụ án dựa trên các chứng cứ được thu thập và việc đánh giá các chứng cứ công khai tại phiên toà. Phiên toà có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên toà, người bào chữa (bên gỡ tội) cũng như đại diện Viện kiểm sát (bên buộc tội) và bị cáo, bị hại… sẽ chứng minh sự thật vụ án (bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ) theo quan điểm mỗi bên.
Như vậy, chứng cứ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc thu thập chứng cứ đòi hỏi người bào chữa phải có những kỹ năng nhất định, nằm rõ phương pháp thu thập chứng cứ để có thể bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi ích hợp pháp của thân chủ mình khi tham gia tố tụng.
Cụ thể, một số quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, như sau: Được thu thập, đưa ra chứng cứ (Điểm h khoản 1 Điều 73); Có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều 88). Ngoài ra, theo quy định tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, mà theo đó, nội dung của Bản án sơ thẩm phải ghi rõ: Ý kiến của người bào chữa và phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra.
Thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về thu thập, cung cấp chứng cứ của người bào chữa cho thấy, chỉ những chứng cứ về các tình tiết giảm nhẹ có xác nhận đầy đủ thì Tòa án mới chấp nhận, còn các chứng cứ liên quan đến việc định tội, định khung hình phạt thường bị “xem nhẹ”, dẫn đến Hội đồng xét xử bác bỏ đề nghị của người bào chữa bằng các cụm từ thường dễ bắt gặp trong nhiều bản án, đó là “không có căn cứ”, “không có cơ sở xem xét” mà không phân tích, không đánh giá vì sao không chấp nhận chứng cứ mà người bào chữa đã tốn biết bao thời gian, công sức “lặn lội” thu thập, giao nộp cho Tòa để chứng minh cho yêu cầu của mình. Thực trạng này được lý giải bởi nguyên nhân sau: Điều 58 BLTTHS năm 2003 cho phép luật sư được quyền thu thập, đưa ra tài liệu, đồ vật để chứng minh yêu cầu, nhưng lại thiếu cơ chế bảo đảm các quyền đó được “thực thi” triệt để, được tôn trọng đúng mực, cũng như chưa có quy định rõ bắt buộc cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá, kết luận có chấp nhận đề nghị của người bào chữa dựa trên các chứng cứ được thu thập bảo đảm tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ. Mặt khác, Điều 64 và Điều 65 BLTTHS năm 2003, quy định đồ vật, tài liệu chỉ được xem là chứng cứ khi được cơ quan tố tụng thu thập theo trình tự, thủ tục luật định. Quy định này đồng nghĩa với việc chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ. Chính vì vậy, vô hình trung tài liệu, đồ vật, chứng cứ mà người bào chữa cung cấp, một khi chưa được Tòa án chấp nhận thì chưa phải là chứng cứ. Tức là Tòa án không bị ràng buộc bởi quy định phải đánh giá chứng cứ nên thực tiễn giải quyết án thời gian qua ở một số Tòa án, nhất là ở cấp sơ thẩm có thể lý giải vì sao có tình trạng Tòa án xem nhẹ chứng cứ do người bào chữa cung cấp hoặc bỏ qua những chứng cứ đó hoàn toàn không đề cập trong bản án. Khắc phục hạn chế này, quy định bổ sung tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, như trên đã nêu, chắc chắn người bào chữa tham gia bào chữa cho người bị buộc tội sẽ thật sự “tâm phục, khẩu phục” việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị người bào chữa dựa trên các chứng cứ, tài liệu công khai kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa , trong đó có chứng cứ chính do người bào chữa thu thập, cung cấp giúp cho HĐXX giải quyết vụ án thật khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người không có tội.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, một thực tế đang tồn tại dù không thật sự phổ biến nhưng cũng không phải là ít, đó là, tâm lí chung của không ít thẩm phán, nhất là thẩm phán trẻ thường tỏ ra nghi ngờ các chứng cứ mà người bào chữa trực tiếp đi thu thập, cung cấp cho Tòa án, nếu không muốn nói họ có “định kiến” không tốt với người bào chữa khi giao nộp chứng cứ có ý nghĩa gỡ tội đối với người bị buộc tội! Tâm lí này được hình thành từ thực tiễn áp dụng các quy định về chứng cứ của BLTTHS năm 2003 chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng in-tơ-nét, từ các thiết bị điện tử.
Một vấn đề khác cũng cần trao đổi, đó là, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015:“Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập”. Tác giả cho rằng, đây là quy định mang tính tiến bộ và có ý nghĩa rất tích cực nhằm tạo điều kiện tối đa để người bào chữa thực hiện tốt quyền thu thập chứng cứ mà nhà làm luật đã trao cho họ, với kỳ vọng tạo sự cân bằng cần thiết giữa buộc tội và gỡ tội mà trong chừng mực nào đó chưa được những người thực thi công lý đảm bảo một cách triệt để. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận nội dung quy định tại khoản 3 Điều 81 của Bộ luật này như vừa nêu, theo tác giả, cũng chưa thật sự tạo được thế “cân bằng” như nhà làm luật mong muốn, bởi lẽ, người bào chữa sau khi vất vã “chạy ngược, chạy xuôi” làm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể thu thập được chứng cứ mà theo họ là cần thiết, do vậy, họ mới chọn giải pháp cuối cùng đề nghị sự hỗ trợ của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng này ngoài việc tiếp nhận đề nghị của người bào chữa mà “chậm chạp” triển khai hoặc triển khai mang tính “lấy lệ” việc thu thập chứng cứ, nên kết quả thu thập chứng cứ rơi vào trường hợp “có cũng như không” thì người bào chữa phải làm sao? Hoặc sau khi cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận đề nghị của người bào chữa, có văn bản trả lời với nội dung chứng cứ, tài liệu mà người bào chữa đề nghị thu thập là không cần thiết trong giải quyết vụ án, thì sao? Hoặc nêu ra những lý do trở ngại nào đó mà không tiến hành thu thập chứng cứ, khi người bào chữa thắc mắc, thì được trả lời họ không có nghĩa vụ ra thông báo phản hồi kết quả thu thập chứng cứ vì pháp luật không quy định nghĩa vụ phải thông báo phản hồi!? Như vậy, thiết nghĩ để quy định này của luật đi vào cuộc sống và thật sự mang lại niềm tin vào công lý của người dân nói chung và người bào chữa nói riêng, theo quan điểm của tác giả, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của HĐXX nếu không thật sự khách quan trong xem xét đánh giá chứng cứ, để hướng đến mọi chứng cứ buộc tội hay gỡ tội nếu được thu thập đúng luật đều có giá trị pháp lý, đều được đánh giá công bằng trước khi Tòa án đưa ra phán quyết. Mặt khác, cũng cần quy định chế tài rõ ràng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí, cố ý không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của người bào chữa mà không có lý do chính đáng trừ trường hợp chứng cứ tài liệu đó thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải cung cấp. Đồng thời cũng quy định trách nhiệm cụ thể của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án mà lơ là, không công tâm, thiếu trách nhiệm trong thực hiện đề nghị của người bào chữa về thu thập chứng cứ, mà không có lý do chính đáng.
Bên cạnh đó, việc xem xét đánh giá chứng cứ do người bào chữa cung cấp ở giai đoạn phúc thẩm cũng cần quan tâm trao đổi, bởi không phải bất kỳ vụ án nào cũng đều có luật sư tham gia bào chữa cho người bị buộc tội, và cũng không phải hễ có người bào chữa là họ tham gia tố tụng ngay từ đầu, mà có thể sau khi có kết luận điều tra hoặc sau khi có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát hoặc sau khi hồ sơ vụ án được chuyển sang Tòa cấp sơ thẩm hoặc sau khi có kháng cáo của bị cáo, bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát, thì người bào chữa mới xuất hiện. Và như vậy, nếu như ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, người bào chữa mới có điều kiện tiến hành thu thập thêm chứng cứ và giao nộp chứng cứ thu thập được cho Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 353 BLTTHS năm 2015. Nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 260 BLTTHS năm 2015, nhà làm luật lại không bắt buộc bản án phúc thẩm phải có những nội dung như tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015, nghĩa là có thể hiện đầy đủ ý kiến của người bào chữa và phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của người bào chữa đưa ra. Dù theo khoản 2 Điều 353 BLTTHS năm 2015, có quy định: “Bản án phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới.”, nhưng quy định này không đồng nghĩa với việc Hội đồng xét xử phúc thẩm phải phân tích, đánh giá tính có căn cứ hay không có căn cứ pháp lý những chứng cứ mà người bào chữa đã thu thập. Theo quan điểm của tác giả, sự thiếu nội dung quy định như vừa nêu, liệu có lặp lại thực trạng đáng buồn mà nhiều người bào chữa trong các vụ án hình sự thời gian qua ca than rằng, Tòa án không chấp nhận đề nghị trên cơ sở chứng cứ người bào chữa cung cấp, nhưng cũng không phân tích, giải thích vì sao!
Thu thập chứng cứ được hiểu là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu quả sử dụng. Như vậy, chứng cứ cần phải có sự ghi nhận theo thủ tục tố tụng hình sự mới có thể sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm. Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định: “ Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.”
Cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh tội phạm nếu không đưa ra được những chứng cứ để chứng minh tội phạm một cách khách quan và toàn diện. Do vậy, quá trình thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng đối với cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy mà Điều 85 BLTTHS năm 2015, quy định khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh: “Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không ít các Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ thường chỉ quan tâm đến việc thu thập các chứng cứ xác định có tội, mà thường rất ít chú ý đến việc thu thập các chứng cứ theo hướng vô tội, với những trường hợp như vậy, việc thu thập chứng cứ không được tiến hành một cách khách quan và toàn diện dẫn đến tình trạng vị phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội. Điều này đã gây nên không ít bức xúc, sai lầm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự thời gian qua.
Mặt khác, mục đích của người bào chữa đưa ra chứng cứ khác với các cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi vì người bào chữa trước hết là người bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa còn góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án. Thông thường những chứng cứ mà người bào chữa thu thập thường mang giá trị “gỡ tội” đúng với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của người bào chữa như vậy mới có giá trị phản biện và làm đối trọng (một phần hoặc toàn bộ) chứng cứ “buộc tội” của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để bào chữa có hiệu quả, người bào chữa sẽ có những kiến nghị cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định khác nhau như điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị nêu trong bản luận tội của Viện kiểm sát để Hội đồng xét xử cân nhắc khi định tội danh, quyết định hình phạt cho bị cáo.
Để thực hiện được điều đó, việc đánh giá chứng cứ có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa pháp lý rất lớn đối với việc lựa chọn các chứng cứ đưa vào sử dụng làm căn cứ buộc tội hay bác bỏ sự buộc tội trong quá trình tố tụng. Đây là một khâu của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó những người tiến hành tố tụng và người bào chữa thực hiện việc xác định giá trị của các tài liệu, vật chứng đã thu thập được nhằm chứng minh những vấn đề cần thiết trong vụ án cụ thể. Đánh giá chứng cứ là quá trình hoạt động phân tích của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án hình sự. Như vậy, có thể thấy rằng đánh giá chứng cứ là hoạt động của con người trong tố tụng hình sự và hoạt động này thể hiện quan điểm, nhận thức, tư duy của người tiến hành tố tụng. Vì vậy, có thể thấy rằng, việc đánh giá chứng cứ sẽ phần nào chịu ảnh hưởng bởi tư cách tố tụng, trình độ chuyên môn, khả năng nhận thức, tư duy của mỗi người, phụ thuộc vào cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và ý thức pháp luật XHCN. Thực tiễn cho thấy, vấn đề đánh giá chứng cứ là rất phức tạp, bởi cùng một chứng cứ, cùng một hồ sơ vụ án hoặc cùng một tình tiết nhưng quan điểm đánh giá giữa các thẩm phán trong cùng HĐXX cũng khác nhau, hoặc giữa thẩm phán với kiểm sát viên, người bào chữa khác nhau là chuyện bình thường và ngay cả HĐXX cấp sơ thẩm nhiều trường hợp nhận định, đánh giá chứng cứ so với HĐXX phúc thẩm cũng rất khác nhau.
Các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mới chỉ là nguồn chứng cứ. Người tiến hành tố tụng phải sàng lọc, phân loại, đánh giá tài liệu nào, lời khai nào, vật chứng nào, kết luận giám định nào… được coi là chứng cứ. Tiêu chí để coi một hay nhiều nguồn chứng cứ là chứng cứ, khi chứng cứ đó phải có tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chúng. Không đáp ứng được ba tiêu chí trên chúng không được coi là chứng cứ và không được sử dụng để chứng minh tội phạm mặc dù chúng đang tồn tại trong hồ sơ vụ án, cụ thể:
– Tính hợp pháp của chứng cứ: Khi tiến hành đánh giá chứng cứ phải rà soát để xác định tính hợp pháp của chứng cứ, những chứng cứ đó được phát hiện, thu thập thế nào, có tuân thủ theo các quy định của pháp luật TTHS hay không. Ví dụ: Khi tiến hành thu thập lời khai của bị can bị cáo là người chưa thành niên, hay người có nhược điểm về mặt thể chất và tâm thần mà không có sự chứng kiến của người đại diện hợp pháp, hay trong quá trình lấy lời khai bị can bị cáo bị ép cung, bức cung… thì khi đánh giá chứng cứ những lời khai trên sẽ không được coi là chứng cứ.
Đối với tài liệu đọc được, nghe, nhìn được thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Tài liệu nghe được, nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình. Đối với vật chứng thì phải là hiện vật gốc và phải được bảo quản, giữ gìn để giữ đúng đặc tính. Đối với lời khai của đương sự, người làm chứng, phải được ghi thành văn bản hoặc ghi âm, ghi hình theo quy định của pháp luật hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. Đối với kết luận giám định thì phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo thủ tục luật định. Đối với biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ thì phải được tiến hành theo thủ tục do luật định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định. Kết quả thẩm định, thẩm định giá tài sản thì phải được tiến hành theo thủ tục luật định hoặc do chuyên gia về giá cung cấp.
Tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ. Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ các tài liệu, vật chứng đã thu thập được phải phán ánh quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ, các chứng cứ đó có liên quan đến vụ án hình sự đang được giải quyết hay không; các chứng cứ đó có giá trị và ý nghĩa thế nào trong mối quan hệ với đối tượng chứng minh? Do vậy, khi đánh giá chứng cứ phải đánh giá từng chứng cứ, xác định giá trị của chứng cứ đó, tức là chứng cứ đó chứng minh cho đối tượng nào của vụ án, hiệu quả cao hay thấp, đánh giá mối quan hệ giữa các chứng cứ đối chiếu với thực tế khách quan xem có phù hợp hay không. Sau đó đánh giá toàn bộ chứng cứ để rút ra kết luận về vụ án.
Khi đánh giá chứng cứ, người tiến hành tố tụng phải đánh giá tổng hợp chứng cứ, xác định xem xét toàn bộ chứng cứ thu thập được đã đầy đủ chưa, đã đủ cơ sở để chứng minh tội phạm hay chưa. Ngoài ra, khi đánh giá chứng cứ người tiến hành tố tụng cần phải có niềm tin nội tâm để có sự tin tưởng vào kết luận mà mình đưa ra là đúng. Niềm tin nội tâm được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, nó phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, sự từng trải cũng như trách nhiệm, lương tâm của người tiến hành tố tụng… Niềm tin nội tâm sẽ không thể chính xác nếu người tiến hành tố tụng không có những kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp hoặc thiếu đi sự vô tư khách quan khi đánh giá sự việc.
Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội người bào chữa sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên trong tố tụng; người bào chữa phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ và đánh giá chứng cứ nhằm bác lại những quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, có thể nói, người bào chữa có vai trò rất quan trọng cùng với những người tiến hành tố tụng khác trong việc đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự.
Trong toàn bộ quy trình tố tụng, giai đoạn xét xử đóng vai trò trung tâm trong việc đánh giá chứng cứ, đây là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc chứng minh sự thật của vụ án. Phiên toà là nơi toà án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Toà án quyết định giải quyết vụ án dựa trên các chứng cứ được thu thập và việc đánh giá các chứng cứ công khai tại phiên toà. Phiên toà có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên toà, người bào chữa (bên gỡ tội) cũng như đại diện Viện kiểm sát (bên buộc tội) và bị cáo, bị hại… sẽ chứng minh sự thật vụ án (bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ) theo quan điểm mỗi bên.
Như vậy, chứng cứ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc thu thập chứng cứ đòi hỏi người bào chữa phải có những kỹ năng nhất định, nằm rõ phương pháp thu thập chứng cứ để có thể bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi ích hợp pháp của thân chủ mình khi tham gia tố tụng.
Phạm Thị Hồng Đào –Văn phòng luật sư Thạnh Hưng