Nguyễn Văn Hùng và đồng bọn phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật và tội cố ý gây thương tích

(Kiemsat.vn) – Hành vi của Hùng cùng đồng bọn (Minh, Tuấn) có dấu hiệu phạmtội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo Điều 123 BLHS và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 BLHS. Đối với hành vi của Hà không cấu thành tội phạm.



Qua nghiên cứu toàn bộ nội dung vụ án trong bài viết “Nguyễn Văn Hùng và đồng bọn phạm tội gì” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy đăng trên Phiên bản điện tử của TCKS ngày 25/5/2016, tôi không thống nhất với hai ý kiến mà tác giả đã nêu. Bởi lẽ:

Hành vi của Hùng, Tuấn, Minh có dấu hiệu của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123 BLHS) và tội cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS). Bởi vì: Ban đầu “Do cần tiền ăn tiêu, Nguyễn Văn Hùng (sinh năm 1985) bàn bạc với Cao Văn Minh (sinh năm 1989) và Hoàng Văn Tuấn (sinh năm 1994) và bạn gái của Tuấn là Nguyễn Thu Hà (sinh năm 1999) tìm cách chiếm đoạt tiền của anh Lê Văn Tân. Cả bọn thống nhất để Hà giả làm gái bán dâm, được Hùng giới thiệu rồi dẫn Tân đến địa điểm mua bán dâm, sau đó báo cho Minh, Tuấn đến bắt quả tang. Hành vi này của Hùng và đồng bọn (Minh, Tuấn) có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng Hùng và đồng bọn chỉ yêu cầu đưa cho Hà 100.000 đồng còn tiền thuê phòng thì Hùng và anh Tân chia đôi. Như vậy, hành vi của Hùng và đồng bọn có dấu hiệu lừa đảo Tân nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng 100.000 đồng chưa đủ định lượng để cấu thành tội lừa đảo chiếm đọat tài sản (Điều 139 BLHS).

Ở đây, Tuấn giả vờ là anh trai của Hà đi tìm nhiều ngày không gặp và lấy dép trong phòng ném vào mặt của Hùng, lấy ghế inox dọa đánh anh Tân nhưng Hùng giả vờ can nên Tuấn không đánh Tân. Sau đó, Tuấn liên tục hỏi Tân “bây giờ ý mày làm sao” ép anh Tân đưa tiền cho bọn Tuấn. Được nhà nghỉ can ngăn nên cả nhóm đưa anh Tân đến quán nước. Cả bọn để Hà ở lại và đưa anh Tân đến bãi đất trống, yêu cầu anh Tân đưa 10 triệu đồng. Anh Tân đưa cho Tuấn 200.000 đồng nhưng Tuấn không chịu. Hành vi của Hùng và đồng bọn có dấu hiệu bắt giữ người trái pháp luật nhằm tống tiền (đòi Tân 10 triệu đồng). Thế nhưng, khi Tân đưa tiền (200.000 đồng) thì Tuấn lại không lấy. Trong lúc này, dù Hùng và đồng bọn có đe dọa nhưng anh Tân nói: “Tao không sợ chúng mày đâu”. Tuấn và Minh dọa sẽ đưa ra Công an. Tuấn bắt anh Tân để lại chiếc xe máy để hôm sau giải quyết. Do ngại phải ra Công an nên anh Tân đồng ý để chiếc xe máy và viết giấy lại. Việc Tân để lại xe và viết giấy lại thể hiện sự thỏa thuận và công khai. Qua đó cho thấy, tuy Hùng cùng đồng bọn có dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng hành vi đe dọa dùng vũ lực của Hùng và đồng bọn không làm cho người bị tấn công (Tân) lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm cướp tài sản (Tội cướp tài sản Điều 133 BLHS) hay Hùng cùng đồng bọn dùng vũ lực nhưng không làm uy hiếp tinh thần người khác nhằm cưỡng đoạt tài sản (Tội cưỡng đoạt tài sản Điều 135 BLHS) nhằm chiếm đoạt tài sản.

Đối chiếu hành vi của của Hùng cùng đồng bọn với cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS: “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”, thì hành vi dùng vũ lực, đe dọa của Hùng và đồng bọn chưa làm cho Tân lâm vào tình trạng không thể chống cự được và Tân có đưa tiền ban đầu 200.000 đồng, sau đưa 500.000 đồng nhưng Hùng và đồng bọn không lấy mà chỉ đòi tiền ban đầu đòi 10 triệu đồng, sau đòi 40 triệu đồng nhưng những yêu cầu của Hùng và đồng bọn không được Tân đáp ứng. Hơn nữa, ban đầu Hùng và đồng bọn đe dọa nhưng sau lại có sự thỏa thuận với Tân, cho Tân viết gấy để lại xe, cho Tân điện thoại với vợ và bạn bè Tân. Qua đó cho thấy hành vi của Tân và đồng bọn không hội đủ các yếu tố cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.

Cũng theo phân tích nêu trên, đối chiếu với cấu thành cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 BLHS: “1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”, thì dù Hùng và đồng bọn đe dọa, dùng vũ lực nhưng không uy hiếp tinh thần của Tân: “Tao không sợ chúng mày đâu”. Do đó, hành vi của Hùng và đồng bọn không hội đủ các yếu tố cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 BLHS.

Qua vụ án này cho thấy, hành vi của Hùng và đồng bọn có sự chuyển thể từ dấu hiệu cấu thành tội phạm này sang dấu hiệu cấu thành tội phạm khác. Ở đây, Hùng và đồng bọn bắt giữ Tân từ ngày 20 đến ngày 21/9/2014 và đưa Tân đi từ nhà nghỉ Nắng Hồng đến quán nước rồi đến bãi đất trống và cuối cùng đưa Tân đến một địa điểm vắng. Tại đây,Tuấn dùng dây điện dài khoảng 60 cm, đường kính 0.5 cm đánh vào vùng đầu và người anh Tân ép anh Tân phải gọi điện về cho vợ là chị Lê Thu Trang chuẩn bị 40.000.000 đồng nhưng chị Trang không có tiền để nộp cho Tuấn. Anh Tân đã gọi điện nhờ bạn là anh Bùi Thế Nam và Nguyễn Văn Quyết đến giải quyết hộ nhưng không được nên các anh đã đến Công an huyện trình báo.

Đối chiếu hành vi của Hùng cùng đồng bọn nêu trên với cấu thành cơ bản của tội bắt giữ người trái pháp luật theo Điều 123 BLHS: “ 1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” và cấu thành cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 BLHS: “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người”, thì hành vi của Hùng và đồng bọn cơ bản đã hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 123 BLHS và Điều 104 BLHS (cần trưng cầu giám định thương tích của Tân).

Từ các phân tích nêu trên cho thấy, hành vi của Hùng, Minh, Tuấn có đủ yếu tố cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo Điều 123 BLHS và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 BLHS.

Đối với Hà khi đến quán nước thì Hà ở lại và mọi hành động của Hùng và đồng bọn về sau Hà không biết và không thể hiện ý chí của mình đối với hậu quả mà Hùng cùng đồng bọn gây ra, nên Hà không đồng phạm với Hùng và đồng bọn về 2 tội danh trên.

Rất mong nhận được sự trao đổi của đồng nghiệp và bạn đọc/

Thanh Nghị

1900.0191