Góp phần hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[1]. Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước đã được chính thức khẳng định với ý nghĩa là một nguyên tắc hiến định trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước, tạo cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là những khuôn khổ pháp lý được tạo ra bởi Hiến pháp và pháp luật nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, định hướng và tạo chuẩn mực cho hành vi của các tổ chức, cá nhân tham gia kiểm soát quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Đó là tổng thể những quy tắc, thể thức, chuẩn mực, phạm vi, giới hạn, quy trình, thủ tục, xác lập quyền và trách nhiệm của các chủ thể, các biện pháp, hậu quả pháp lý… được hàm chứa trong nội dung các quy phạm của pháp luật thực định, hướng đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước[2]. Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là yếu tố nền tảng, cốt lõi cùng với các yếu tố khác (thiết chế, điều kiện, mối quan hệ tương tác giữa thể chế, thiết chế, các điều kiện…) hình thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước[3]. Thể chế pháp lý có vai trò quyết định,bởi phải có các quy định của pháp luật thì mới tạo nên cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước. Để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trước hết phải hoàn thiện thể chế về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Về cơ bản, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại Việt Nam hiện nay bao gồm kiểm soát từ bên ngoài và kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước. Mỗi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ cần có thể chế pháp lý tương ứng. Kiểm soát từ bên ngoài bộ máy nhà nước gồm: Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng; kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước gồm: Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm soát của cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương, của cơ quan chính quyền địa phương cấp trên với chính quyền địa phương cấp dưới và giữa các cơ quan trong cùng cấp chính quyền địa phương với nhau. Với phạm vi rộng, bài viết này không có điều kiện đề cập giải pháp hoàn thiện từng lĩnh vực thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước một cách cụ thể, mà chỉ nêu một số ý kiến tổng thể bước đầu để góp phần định hướng quá trình hoàn thiện hệ thống thể chế pháp lý thời gian tới.
1. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước của các chủ thể ngoài Nhà nước
1.1. Về kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng
Trong nội dung này, cần tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Dựa trên sự phân công trách nhiệm rõ ràng đó, Đảng thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đối với từng thiết chế cơ bản của bộ máy nhà nước, Đảng cần xây dựng được phương thức lãnh đạo hiệu quả. Đảng lãnh đạo còn thông qua việc thiết lập cơ chế để cơ quan nhà nước này kiểm soát cơ quan nhà nước khác như là những công cụ kiểm soát trong tầm kiểm soát của Đảng. Ví dụ, với sự lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội, Đảng sẽ thêm công cụ giám sát cơ quan hành pháp; với sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đảng sẽ thực hiện sự kiểm soát của Chính phủ với các cơ quan nhà nước khác trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ… Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía Đảng lãnh đạo sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã gợi mở: “Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật…; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”[4].
1.2. Về kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân
Để hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân phải chú ý đầy đủ các khía cạnh của chủ thể nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước: Thứ nhất, nhân dân – với tư cách toàn thể công dân Việt Nam – là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước, ví dụ: Khi toàn dân góp ý xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, hoặc khi toàn thể nhân dân tham gia một cuộc trưng cầu ý dân trên toàn phạm vi lãnh thổ Việt Nam; thứ hai, nhân dân – với tư cách từng cá nhân công dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các chế định như quyền bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo…; thứ ba, nhân dân – dưới danh nghĩa các cộng đồng mà họ sinh sống và làm việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp); thứ tư, nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức khác kiểm soát quyền lực nhà nước, ví dụ: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tổ chức bầu cử, hoặc thực hiện quyền giám sát xã hội, phản biện xã hội.
Khi xây dựng thể chế pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, ngoài quyền kiểm soát (mà chủ yếu là giám sát) của các chủ thể nêu trên, không thể thiếu việc quy định các điều kiện bảo đảm để nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước, ví dụ: Để nhân dân có thể tiếp cận thông tin, các cơ quan nhà nước phải công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Cần sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Luật Ban hành quyết định hành chính, nghiên cứu nâng lên thành luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước hiện đang được quy định tại Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 của Chính phủ… Trên thực tế, thời gian qua, cơ quan lập pháp mới tập trung xây dựng, sửa đổi các luật về tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà chưa chú trọng ban hành các luật liên quan trực tiếp đến kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Vì vậy, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra phương hướng phải “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”[5]. Đây chính là phương hướng hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước thời gian tới.
2. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước
2.1. Thể chế pháp lý về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức các cơ quan tương ứng trong bộ máy nhà nước mới ban hành đã có những bước tiến tích cực, tuy nhiên còn có những hạn chế, cụ thể như sau:
Đối với kiểm soát quyền lập pháp: Các công cụ, phương tiện pháp lý để kiểm soát quyền lập pháp ở nước ta còn hạn chế và hiệu lực chưa rõ. Do nhận thức đã tồn tại lâu dài về tính thống nhất của quyền lực nhà nước là thống nhất ở Quốc hội trong bộ máy nhà nước thiết kế theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa nên sự kiểm soát chỉ nặng về một chiều từ lập pháp đến các cơ quan khác mà chưa chú trọng chiều ngược lại. Chính phủ được quy định là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” và vì thế Chính phủ có rất ít công cụ kiểm soát hoạt động lập pháp của Quốc hội. Tòa án là thiết chế rất quan trọng trong nhà nước pháp quyền thì chưa được trao quyền phán quyết các vi phạm về Hiến pháp. Trong khi đó, việc trao quyền tự giám sát hoạt động lập pháp cho các cơ quan trong nội bộ của Quốc hội như hiện nay (việc thẩm tra luật của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận trước khi trình Quốc hội…) là chưa đủ mạnh. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội vận hành theo cơ chế của một cơ quan dân cử, đại diện, trong khi việc xem xét, phán quyết sự phù hợp của một văn bản quy phạm pháp luật phải mang tính chất tài phán thì ở nước ta cơ chế tài phán trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.
Đối với kiểm soát quyền hành pháp: Cơ quan chính giám sát Chính phủ hành pháp là Quốc hội. Tuy nhiên hiện nay, các quy định về trình tự, thủ tục, công cụ giám sát quyền lực hành pháp của Quốc hội còn chưa được quy định chi tiết, như: Thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn; cách thức tổ chức các phiên họp giải trình tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cách thức hoặc bộ phận chuyên môn để giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các bộ, ngành thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; cách thức thành lập và nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban điều tra do Quốc hội thành lập… Những vấn đề này đã được xem xét hoàn thiện thêm một bước trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp lần thứ 10 Quốc hội khóa XIII (tháng 11/2015). Bên cạnh đó, cơ chế xét xử của Tòa án đối với các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, pháp lệnh (do Chính phủ, bộ, ngành ban hành) vẫn chưa được quy định. Do đó, việc kiểm soát quyền lực của Chính phủ trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa được triệt để.
Đối với kiểm soát quyền tư pháp: Quyền tư pháp và hoạt động tư pháp là lĩnh vực đặc thù liên quan đến quyền con người và được tiến hành theo những trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ. Vấn đề quan trọng nhất trong kiểm soát quyền tư pháp là làm sao để hoạt động xét xử của tòa án không bị lạm dụng, không vi phạm pháp luật, dẫn đến oan sai; và ngược lại các cơ quan khác không được can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án, bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử. Vì vậy, các nguyên tắc liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân quy định trong Hiến pháp năm 2013 ngoài việc cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì cần tiếp tục cụ thể hóa trong các luật khác, đặc biệt các luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính.
2.2. Thể chế pháp lý về kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương, kiểm soát của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới và giữa các cơ quan trong cùng cấp chính quyền địa phương không phải là vấn đề mới, nhưng Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có những thay đổi căn bản trong quan niệm về vị trí, vai trò, cách thức tổ chức và cơ chế hoạt động của chính quyền địa phương, tạo ra nhiều độ mở và linh hoạt trong việc thiết kế chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Như vậy, nếu cơ chế kiểm soát quyền lực của cấp trên với cấp dưới vẫn cứng nhắc, không linh hoạt thì sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.
Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có một số khái niệm mới trong cơ chế phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương được quy định như phân quyền, phân cấp, ủy quyền cho chính quyền địa phương (từ Điều 11 đến Điều 14) nhưng trong thực hiện sẽ có nhiều lúng túng vì hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, nhất là việc phân quyền theo nguyên tắc phải được quy định trong các luật chuyên ngành cụ thể, như vậy sẽ rất khó hệ thống hoá các quy định về phân quyền, dẫn đến mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước có tiêu chí, nguyên tắc phân quyền khác nhau, không thống nhất và khó thực hiện. Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy cơ chế kiểm soát giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương chưa thực sự hiệu quả, một số trường hợp trung ương mất kiểm soát đối với địa phương (ví dụ như trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên khoáng sản…). Về giám sát của cơ quan dân cử, cũng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân) trong thực tiễn còn rất nhiều nội dung có tính hình thức. Vì vậy, hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Về phương hướng hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền”. Đối với chính quyền địa phương, “tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương”[6].
3. Nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý về bảo vệ Hiến pháp
Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Tuy vậy, hiện nay, Việt Nam chưa xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp cụ thể, độc lập (Hội đồng bảo hiến/Tòa án Hiến pháp…) mà vẫn còn tản mạn trong các đạo luật khác nhau về tổ chức bộ máy nhà nước. Trong trường hợp có Luật về bảo vệ Hiến pháp thì có thể ra đời một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp do luật định hay không? Mặc dù khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 khi kể tên các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp có dùng cụm từ “các cơ quan khác của Nhà nước”, nhưng điều này sẽ là rất khó nếu cơ quan chuyên trách ấy là một cơ quan nhà nước độc lập, vì việc thiết kế cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở nước ta bị ràng buộc bởi hai nguyên tắc là: Hiến pháp tối thượng và Quốc hội là tối thượng. Vì những ràng buộc đó, thì về mặt lý luận, chúng ta không có cơ sở để thiết lập một Tòa án Hiến pháp đứng độc lập với Quốc hội, hoặc trao cho Tòa án nhân dân tối cao thẩm quyền phán quyết về tính hợp hiến trong các hành vi của Quốc hội. Với những ràng buộc có tính chất nguyên lý như vậy, cùng với những bất cập của cơ chế bảo hiến hiện hành, việc thiết lập Hội đồng Hiến pháp là một cơ quan chuyên môn đặc biệt của Quốc hội với tư cách là cơ quan không có thẩm quyền “kết luận về tính hợp hiến” và không làm mất hoàn toàn hiệu lực của đạo luật đã được Quốc hội thông qua (mặc dù vẫn có quyền kiến nghị với Quốc hội xem xét lại đạo luật đã được thông qua) là lựa chọn có thể chấp nhận được.
4. Thiết lập cơ chế phối hợp kiểm soát giữa cơ quan đảng, cơ quan nhà nước với các hoạt động kiểm soát của nhân dân
Tăng cường hoạt động kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước phải được tiến hành đồng thời với việc tăng cường kiểm soát của các cơ quan có chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát thuộc bộ máy đảng và nhà nước. Sự phối hợp của hai hệ thống kiểm soát này sẽ là sự bổ sung hoàn thiện cho nhau để bảo đảm hiệu quả tối ưu cho mục đích kiểm soát quyền lực. Điều này xuất phát từ nguyên nhân mỗi hệ thống kiểm soát đều cần sự bổ khuyết của hệ thống kia để bảo đảm hiệu quả cho hoạt động của mình. Hệ thống kiểm soát bên trong cần tính khách quan của hệ thống kiểm soát bên ngoài để làm cơ sở cho quyết định của mình. Hệ thống kiểm soát bên ngoài cần sự hỗ trợ do quyết định mang tính quyền lực công của hệ thống kia mang lại. Cụ thể, tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cũng như của Ban thanh tra nhân dân, với hoạt động thanh tra của Thanh tra Chính phủ, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Đặc biệt, cần chú trọng việc phối hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Bởi vì, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước cao nhất, và do vậy, khi được kết hợp với hoạt động giám sát trực tiếp của nhân dân sẽ tạo ra một cơ chế pháp lý bảo đảm cho hoạt động giám sát của nhân dân được tiến hành có hiệu quả trên thực tế.
Tóm lại, thiết lập hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả là cả một quá trình nhận thức và vận động khó khăn, lâu dài về phương diện lý luận và thực tiễn. Chúng tôi cho rằng trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và những đường lối của Đảng sau Đại hội XII thì thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ được hoàn thiện nhanh hơn. Bài viết này chỉ mong muốn nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước cần tiến hành đồng bộ, giải quyết được những điểm còn thắt về cơ chế hiện nay để: (i) Tăng cường sự lãnh đạo và vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng; (ii) Tạo điều kiện tối đa để nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước; (iii) Khắc phục hạn chế, gia tăng hiệu quả kiểm soát quyền lực nội bộ giữa các cơ quan nhà nước; (iv) Bảo đảm cho Hiến pháp thực sự có vị trí, vai trò tối thượng, được tôn trọng, bảo vệ và thực thi; (v) Tạo ra sự phối kết hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội cụ thể của nước ta.
ThS. Nguyễn Long Hải
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Tài liệu tham khảo:
[1]. Điều 2, Hiến pháp năm 2013.
[2]. Hiện nay có một số cách định nghĩa khác nhau về thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, như: “Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước là các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật liên quan đến việc tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm các quy định của Hiến pháp, pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước; các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát; các quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, nội dung, hình thức, trình tự kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy nhà nước, trong luật bầu cử, luật giám sát, thanh tra, phản biện xã hội, trong các điều ước và tập quán quốc tế…” (xem: Nguyễn Minh Đoan,Vũ Thu Hạnh: Các yếu tố cấu thành của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 năm 2014); hay: “Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật xác lập các cơ quan, tổ chức, cá nhân, quyền và nghĩa vụ, phương thức và các điều kiện bảo đảm để các chủ thể khác nhau kiểm soát quyền lực nhà nước” (xem: Trần Ngọc Đường: Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước ta, Văn phòng Quốc hội đã nghiệm thu năm 2015). Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ xin nêu ngắn gọn quan niệm về thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước. Xin được trở lại phân tích rõ hơn về khái niệm này trong một bài viết khác.
[3]. Các nhà nghiên cứu ở nước ta hiện nay còn quan niệm khác nhau về những yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, tuy nhiên đều thống nhất rằng trong cơ chế đó có thể chế, thiết chế.
[4]. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
(Nguồn: http://daihoi12.dangcongsan.vn/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340728&cn_id=400849).
[5]. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
[6]. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Tham khảo thêm:
- Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
- Hoàn thiện Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015
- Một số vấn đề về triển khai Luật Hộ tịch
- Xây dựng pháp luật về án treo, nhìn từ góc độ xã hội học và xã hội học pháp luật
- Tăng cường vai trò của các tổ chức phi Nhà nước trong thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam
- Bàn về một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
- Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức
- Nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam
- Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra
- Cần quy định thống nhất về độ tuổi trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam