Nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự – Nhìn từ góc độ cải cách tư pháp

Nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự – Nhìn từ góc độ cải cách tư pháp

09/12/2015

Hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước ta chú trọng ngay trong những năm đầu mới giành được chính quyền. Cụ thể, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp nước nhà. Phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, ngày 02/1/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, hiện đại, bảo vệ công lý.

Trên tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị, thời gian qua, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến lĩnh vực tư pháp, trong đó có quy định vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử, đây được coi là những yêu cầu bức thiết, là nền tảng cho hoạt động tư pháp ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 được ban hành cũng đã quy định rõ về vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân và có thể xem đây là một trong những nguyên tắc cơ bản cho quá trình thực hiện cải cách tư pháp. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đã có một số luật, bộ luật, pháp lệnh mới được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp nói chung và với nguyên tắc tranh tụng nói riêng nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của công dân. Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử…”. Từ những quy định của Hiến pháp và pháp luật cho thấy, vấn đề tranh tụng nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được hết sức coi trọng. Để hoạt động tranh tụng được đảm bảo thì trong hoạt động xét xử, Tòa án sẽ căn cứ vào kết quả tranh tụng để xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cung cấp, của quá trình điều tra cũng như thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa của kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa, tài liệu do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, người bào chữa hoặc bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp, đó là cơ sở giúp Tòa án xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ và ra pháp quyết về vụ án.

Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Có thể nói, pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã quy định rất rõ về quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án, từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đều có sự tham gia của Viện kiểm sát với hàng loạt quyền và nghĩa vụ đã được quy định rất cụ thể. Viện kiểm sát là người bảo vệ nội dung truy tố của Viện kiểm sát, cho nên ở giai đoạn xét xử, khả năng tranh tụng của kiểm sát viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Hiện nay, vấn đề tranh tụng trong phiên tòa hình sự là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo tính công bằng dân chủ giữa người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, đảm bảo yêu cầu tranh tụng là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo Từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là việc kiện cáo lẫn nhau. Còn theo nghĩa Hán Việt, thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng hình sự bao giờ cũng có sự tham của bên bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm phạm và bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, yêu cầu Tòa án phân xử nội dung đúng, sai. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho kiểm sát viên có quyền đưa ra chứng cứ buộc tội và người bào chữa đưa ra chứng cứ gỡ tội tranh luận với kiểm sát viên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên tòa. Vậy có thể hiểu rằng, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Đảm bảo tốt hoạt động tranh tụng và thông qua hoạt động tranh tụng của luật sư và kiểm sát viên tại phiên tòa, sẽ tạo cơ sở cho Tòa án (Hội đồng xét xử) đánh giá kết quả của những hoạt động tố tụng trước đó, đồng thời giúp cho việc xét xử được chính xác. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa còn có ý nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Mặc dù hoạt động tranh tụng trong thời gian qua không ngừng được hoàn thiện, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta, nhưng thực tiễn cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến chất lượng áp dụng pháp luật còn hạn chế, thể hiện ở một số tồn tại như:

Thứ nhất, một số vụ án hình sự, kiểm sát viên tham gia hỏi cung bị cáo ngay từ khi bắt, tạm giữ, tạm giam và bị can nhận tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo lại chối tội và khai trước tòa là bị cáo bị ép cung, nhục hình dẫn đến luật sư yêu cầu Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần.

Thứ hai, đối với những vụ án, bị can bị khởi tố về tội giết người theo Điều 93 của Bộ luật Hình sự chưa xác định được khoản 1 hay khoản 2, nếu khởi tố bị can theo khoản 2 thì không bắt buộc phải có luật sư bào chữa chỉ định cho bị can (Điều 57 của BLTTHS) nhưng trong quá trình điều tra lại xác định hành vi của bị can phạm tội ở khoản 1 Điều 93 và tài liệu điều tra không thể hiện có sự tham gia của luật sư là không khách quan và không có giá trị chứng minh. Ở đây có thể hiểu rằng, quy định của luật là bắt buộc phải có người bào chữa trong mọi trường hợp khi bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.

Thứ ba, khi tranh tụng với luật sư, một số kiểm sát viên thực hiện kỹ năng tranh tụng chưa thuyết phục, còn né tránh, có tâm lý e ngại tranh luận. Trong một số phiên tòa, khi luật sư đưa ra ý kiến phản bác những chứng cứ buộc tội của kiểm sát viên và kiểm sát viên không thể đưa ra lời lẽ đối đáp, cuối cùng chỉ nói rằng, Viện kiểm sát “giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng” mà không giải thích.

Thứ tư, trong quá trình tranh luận, một số kiểm sát viên và luật sư còn thiếu bình tĩnh trước những tình huống diễn ra tại phiên tòa, nóng nảy khi phát ngôn dẫn đến sử dụng các ngôn từ pháp lý thiếu chuẩn xác, viện dẫn pháp luật còn chung chung, hiệu quả tranh tụng không cao, thiếu tính thuyết phục đối với Hội đồng xét xử và những người dự xử tại phiên tòa.

Từ thực trạng trên, để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, cần phải thực hiện một số giải pháp cần thiết như:

Một là, cần quy định và hướng dẫn thi hành nguyên tắc tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, cần quy định quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, họ chỉ trình bày lời khai khi có sự hiện diện của luật sư hoặc của người bào chữa khác. Nhà nước cần cụ thể hóa hơn nữa các văn bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật, cụ thể như: Cần quy định về việc ghi âm, ghi hình khi lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can trong những trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; giải thích cụ thể thế nào là thành khẩn khai báo, thế nào là ăn năn hối cải, vấn đề khắc phục hậu quả, phạm tội ít nghiêm trọng để cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật được thống nhất.

Hai là,Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tạo điều kiện tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho kiểm sát viênkhi tham gia phiên tòa như: Kỹ năng tranh tụng với người bào chữa, kỹ năng khi trình bày bản luận tội, cách diễn đạt, đối đáp. Bất kỳ một phiên tòa diễn ra dù phức tạp hay đơn giản, thì Viện kiểm sát cần phải rút kinh nghiệm về công tác xét xử đối với mỗi vụ án để đánh giá những mặt tích cực, hạn chế để có hướng giải quyết kịp thời cho những vụ án diễn ra sau này. Mỗi vụ án cần phân công từ hai kiểm sát viên trở lên để nghiên cứu hồ sơ nhằm tránh tình trạng vì những lý do khách quan, kiểm sát viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án không tham gia xét xử được phải chuyển vụ án đó cho kiểm sát viên khác, nhưng thời hạn xét xử đã đến mà vẫn chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án dẫn đến thiếu tự tin, lúng túng khi tranh tụng.

Về phần mình, các kiểm sát viên cần nhận thức đầy đủ hoạt động thực hành quyền công tố đã được pháp luật quy định, trách nhiệm trong việc chứng minh tội phạm, việc chứng minh tội phạm phải dựa trên nguyên tắc đảm bảo dân chủ, khách quan, đảm bảo quyền con người đã được nghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm sát viên phải biết tổng hợp chứng cứ, sắp xếp chứng cứ theo diễn biến khách quan của hành vi phạm tội, tránh trường hợp chứng cứ mâu thuẫn, chứng cứ không có tính thuyết phục; thực hiện đánh giá chính xác các chứng cứ, biết dự liệu các tình huống trong trường hợp bị cáo phản cung, chối tội… Kiểm sát viên cũng cần thường xuyên nghiên cứu văn bản pháp lý liên quan đến giải quyết vụ án hình sự, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

Ba là,theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân, là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp. Để thực hiện tốt những chức năng và nhiệm vụ của mình, Tòa án cần thực hiện tốt các vấn đề như: (i) Hướng dẫn đường lối xét xử các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt chú ý đến các quy định về tranh tụng trong tố tụng hình sự; (ii) Tăng cường hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật về lĩnh vực tranh tụng trong hoạt động xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa; (iii) Kiện toàn về cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét xử và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tranh tụng: (iv) Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Tòa án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân, với cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức thực hiện hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và một số người tham gia tố tụng khác; Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện cho các Tòa án, cần sắp xếp vị trí cho các bên tham gia tranh tụng một cách công bằng và thuận tiện khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.

Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tranh tụng, nâng cao chất lượng của công cuộc cải cách tư pháp, đáp ứng được yêu cầu Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng như Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020.

ThS. Lê Văn Quyến

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Tham khảo thêm:

1900.0191