Bình luận một số quan điểm đối với 10 vấn đề trọng tâm xin ý kiến nhân dân về Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)
Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) đang diễn ra một cách sôi nổi, khẩn trương, nhiều cuộc hội thảo, hội nghị… được tổ chức để lấy ý kiến góp ý của nhiều đối tượng, thành phần khác nhau. Nhiều ý kiến có chất lượng, trong đó có những ý kiến trái chiều và đều đưa ra những lập luận riêng để thuyết phục. Dưới đây, chúng tôi xin đưa ra và bình luận một số quan điểm về 10 vấn đề trọng tâm xin ý kiến nhân dân tại Phụ lục III Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
1. Về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự (Điều 19)
Có cần thiết phải quy định điều này hay không? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra. Phải khẳng định việc quy định này là cần thiết. Nội dung về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cũng đã manh nha quy định từ Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 nhưng chưa được cụ thể hóa. Với điều kiện như ở Việt Nam, theo tôi, cần thiết phải cụ thể nội dung này. Mục đích của quy định là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân triệt để hơn, nâng cao trách nhiệm của Tòa án và bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa án đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Tòa án sẽ không thể viện cớ nào đó để từ chối giải quyết tranh chấp của người dân. Việc không có luật quy định không thể để người dân phải gánh chịu, nên nếu không có luật thì cần phải có cơ chế để bảo vệ người dân.
Mặc dù Hiến pháp quy định thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng không thể hiểu một cách cứng nhắc làm hạn chế quyền được bảo vệ lợi ích của người dân. Quy định của luật là cho phép Tòa án khi không có luật điều chỉnh thì căn cứ vào những yếu tố khác để giải quyết và đây không thể coi là mâu thuẫn với Hiến pháp.
Tuy nhiên, cũng có nhiều mối lo ngại cần phải nghiên cứu, xem xét tìm phương án khắc phục để quy định này được đảm bảo thực thi trên thực tế.
Thứ nhất, trình độ của thẩm phán, hội thẩm nhân dân là một trong những mối lo lớn cần giải quyết. Do đó, việc quan trọng cần làm là đội ngũ này phải được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, có thể trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ có chuyên gia cố vấn để việc giải quyết đạt chất lượng. Nhưng dù sao thì cũng không thể vì lý do trình độ mà không quy định trách nhiệm của Tòa án trong luật.
Thứ hai, khi không có luật áp dụng dễ gây ra sự tùy tiện trong xét xử, do đó cần phải quy định chặt chẽ, cụ thể hóa hơn so với Dự thảo, điều này cũng để tránh trường hợp thụ lý chỉ là hình thức vì thẩm phán vẫn thụ lý giải quyết nhưng lại ra quyết định đình chỉ.
Thứ ba, việc quy định áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, án lệ như Dự thảo nhằm để Tòa án cân nhắc nên lựa chọn cách nào phù hợp. Do trình độ xét xử của thẩm phán ở nước ta còn yếu, nên đã có ý kiến lo ngại việc áp dụng án lệ và thứ tự ưu tiên áp dụng án lệ đặt ngang với tập quán và tương tự pháp luật, tuy nhiên, án lệ cũng đã từng được áp dụng ngay cả trong trường hợp có luật, mặt khác, có trường hợp việc áp dụng án lệ lại phù hợp hơn, nên quy định áp dụng án lệ như Dự thảo là phù hợp. Khái niệm lẽ công bằng dù chưa được làm rõ nhưng vẫn cần phải đưa vào luật. Cũng có nhiều quan niệm, cách hiểu về lẽ công bằng, có thể không giống nhau do căn cứ tiêu chí, đối tượng mình muốn ưu tiên bảo vệ (bảo vệ Nhà nước hay cá nhân, bảo vệ chủ sở hữu hay người thứ ba…) là không giống nhau. Lẽ công bằng có thể phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của thẩm phán hay nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, theo ý kiến của một chuyên gia người Pháp thì “lẽ công bằng là thực thi công lý một cách tối thượng, đôi khi đi ra ngoài các điều quy định của luật pháp, việc áp dụng lẽ công bằng phải được sự đồng ý của các bên”.
Một vấn đề khác cũng cần bàn đến, đó là nên để quy định ở Bộ luật Dân sự hay Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tôi cho rằng dù Bộ luật Tố tụng Dân sự có hay không nhưng quy định này cần phải đưa vào trong Bộ luật Dân sự vì nó là nguyên tắc nội dung rất quan trọng để bảo vệ người dân, mặt khác cũng không thấy có sự bất ổn rõ ràng khi tồn tại quy định này ở Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, cũng có thể cân nhắc về quan điểm cho rằng nội dung khoản 2 Điều 19 chỉ nên đưa vào Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Về quyền nhân thân
Đối với các nước trên thế giới, không có mô hình thống nhất trong việc quy định về quyền nhân thân, mà việc quy định hay không, quy định như thế nào phụ thuộc vào cách tiếp cận và lựa chọn của mỗi nước. Chúng ta có thể khẳng định rằng, đối với Bộ luật Dân sự của Việt Nam thì việc quy định quyền nhân thân là cần thiết. Chỉ là quy định như thế nào thì lại có nhiều ý kiến, quan điểm được đưa ra như: Cần quy định cụ thể các quyền nhân thân để làm cơ sở cho các văn bản luật khác; chỉ nên quy định một số quyền nhằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân sự và những quyền đặc thù không quy định cụ thể trong Hiến pháp; chỉ quy định quyền nhân thân ở góc độ đặt trong mối quan hệ dân sự hay có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực dân sự, cùng với đó là xây dựng cơ chế thực thi; quy định những quyền mặc dù thuộc quyền dân sự nhưng lại được các luật khác xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi thì không cần ghi nhận trong Bộ luật Dân sự; cần loại bỏ những quyền thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, giữa cơ quan công quyền với cá nhân, những quyền mang tính chính trị nhiều hơn là tính dân sự; cần xác định những trường hợp thuộc quyền con người, quyền công dân thì không đưa vào Bộ luật Dân sự; ngoài ra, khi quy định thì không chỉ là nhắc lại Hiến pháp, mà phải cụ thể hóa, nêu rõ nội dung của quy phạm…
Thiết nghĩ, đúng là qua thực tiễn thấy rằng, việc quy định cụ thể các quyền nhân thân như đã tồn tại ở Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 không cho thấy có bất cập lớn, trong khi cũng không vi phạm gì so với nguyên tắc của luật dân sự, quan trọng hơn là nó cũng đem lại ý nghĩa thiết thực như làm cơ sở cho các văn bản luật và dưới luật, tạo căn cứ để bảo vệ quyền lợi cho người dân, quy định đầy đủ sẽ phòng trừ được trường hợp không văn bản luật nào quy định thì sẽ có cơ sở tại Bộ luật Dân sự, do đó, chúng ta có thể kế thừa cách quy định này nhưng có chỉnh sửa thêm:
– Để các quyền nhân thân được thực thi hiệu quả trong cuộc sống thì quy định quyền cần xác định được các nội dung: Nội hàm của quyền, mức độ bảo hộ, hành vi xâm phạm quyền, phương thức bảo vệ, trách nhiệm phát sinh khi xâm phạm quyền (theo quan điểm của một chuyên gia). Hay theo một số quan điểm khác thì quy định quyền là phải xác định được nội hàm, cơ chế bảo vệ. Chính vì vậy, cách quy định một số quyền như Dự thảo hiện nay chỉ là ghi nhận lại Hiến pháp mà chưa được cụ thể hóa nên rất khó thực thi, hoặc một số quyền thì lại dẫn chiếu đến quy định ở văn bản pháp luật khác, điều này có thể ảnh hưởng đến “hình tượng” luật gốc của Bộ luật Dân sự.
– Trong nội dung quy định của một số quyền cũng cần chỉnh sửa để phù hợp với kinh tế – xã hội phát triển như hiện nay. Ví dụ, quyền đối với hình ảnh, nếu quy định cứ sử dụng hình ảnh là phải được sự đồng ý của người này thì rất khó thực hiện…
3. Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
Theo tinh thần của Dự thảo thì chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự chỉ là cá nhân và pháp nhân, tuy nhiên vẫn có một số quy định riêng về việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, Nhà nước, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương. Theo chúng tôi, không quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là hợp lý vì chủ thể cơ bản chỉ có hai loại là cá nhân và pháp nhân, điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trên thực tế, việc giải quyết những vấn đề liên quan đến hộ gia đình, tổ hợp tác gặp rất nhiều khó khăn về xác định thành viên, cơ chế đại diện, tài sản, trách nhiệm… Do đó, không ghi nhận hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể còn nhằm mục đích quan trọng là hạn chế, loại bỏ những khó khăn đang là gánh nặng cho việc áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến lo ngại rằng, loại bỏ hai đối tượng này thì những quan hệ pháp luật dân sự có liên quan đã phát sinh, tồn tại sẽ giải quyết ra sao (quyết định giao đất của Nhà nước cho hộ gia đình, hợp đồng điện, nước…). Nhưng phải hiểu rõ rằng, không ghi nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại thực tế khách quan của chúng, mà ở đây chỉ là không thừa nhận là chủ thể độc lập, không dành cho chúng một quy chế riêng, còn chúng vẫn có cơ chế để thực hiện.
Điều chúng ta cần quan tâm, giải quyết là nên quy định như thế nào, giải quyết cơ chế để thực hiện ra sao, vì nếu quy định như Dự thảo hiện nay thì chưa thể giải quyết được cốt lõi vấn đề, chưa đạt được mục đích muốn hướng tới. Đây là vấn đề không hề đơn giản, đặc biệt là trong khoảng thời gian ngắn sửa đổi Bộ luật Dân sự, mà trước mắt cần phải có sự phối hợp nghiêm túc của các cơ quan, tổ chức có liên quan để tìm phương án giải quyết vấn đề do lịch sử để lại này. Mặc dù ngay thời điểm hiện tại không thể bỏ ngay tư cách tham gia quan hệ pháp luật dân sự của hộ gia đình và tổ hợp tác, nhưng chúng ta nên tìm cách loại bỏ dần để tránh phải gánh nỗi lo pháp lý. Một số quan điểm, cách giải quyết có thể tham khảo:
– Đưa toàn bộ quy định về sự tham gia của các chủ thể này ra khỏi Bộ luật Dân sự, thời gian đầu thì để luật chuyên ngành điều chỉnh.
– Công nhận tư cách pháp nhân cho chúng tức là Hộ gia đình thì đi đăng ký tư cách pháp nhân, tổ hợp tác chuyển hóa thành hợp tác xã, như vậy cơ chế sẽ được xác định rõ ràng.
– Nếu vẫn tiếp tục quy định tư cách chủ thể tham gia dù độc lập hay không thì chúng cũng phải tồn tại làm sao đó để có thể nhận dạng được, quy định rõ cách thức xác định thành viên, chế độ đại diện, trách nhiệm.
– Cần khu trú lại, khu biệt hóa lại, tức là chỉ ghi nhận, quy định trong phạm vi đối với một số giao dịch cụ thể trong đó quan trọng là giao dịch liên quan đất đai, thu hẹp phạm vi các cơ quan có thẩm quyền giải quyết và thực hiện việc “đóng băng” từng bước.
4. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức
Chúng ta đều biết, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bao gồm các điều kiện: Chủ thể xác lập; ý chí của chủ thể; mục đích, nội dung hợp đồng và hình thức. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hình thức chỉ là thủ tục hành chính, nhưng do điều kiện thực tiễn ký kết, thực hiện hợp đồng của nước ta nên pháp luật đã quy định khá chặt chẽ về hình thức của giao dịch, đặc biệt là với những giao dịch liên quan đến tài sản mà Nhà nước cần thực hiện việc quản lý. Theo một số chuyên gia nước ngoài, thì pháp luật Việt Nam nên giảm thiểu điều kiện hình thức đối với giao dịch dân sự nhằm đề cao sự thỏa thuận của các bên. Chính vì vậy, Dự thảo đã quy định trong một số trường hợp nhất định, dù vi phạm hình thức nhưng giao dịch không vô hiệu, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền lợi của chủ thể xác lập quan hệ cũng như lợi ích của người thứ ba.
Tuy nhiên, tinh thần, mục đích muốn hướng tới của luật là tốt nhưng cách quy định như Dự thảo thì cần xem xét lại.
Thứ nhất, hình như Dự thảo được xây dựng mang tính vụ việc(từ vụ việcký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà đất khi không tuân thủ hình thức dẫn đến việc tư lợi cá nhân nên đã lợi dụng căn cứ này để hủy hợp đồng, do đó, Dự thảo đã đưa ra những trường hợp ngoại lệ mà dù vi phạm nhưng hợp đồng vẫn không bị vô hiệu nhằm tránh tình trạng trục lợi cá nhân, bảo vệ lợi ích cho chủ thể đang yếu thế hơn. Vì mang tính vụ việc nên không thể bao quát đủ các trường hợp như: Việc di chúc vi phạm hình thức hoặc hợp đồng có sự đồng thuận của hai bên mà không tuân thủ hình thức nhưng có người thứ ba yêu cầu hoàn tất thủ tục… thì giải quyết như thế nào?
Thứ hai, cần phải chỉnh sửa một đôi chỗ trong quy định này: Nên bỏ cụm từ “nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác” vì nếu có việc trốn tránh nghĩa vụ thì sẽ là căn cứ tuyên hợp đồng vô hiệu do giả tạo mà không liên quan đến hình thức hợp đồng. Bên cạnh đó, cần bổ sung sự có mặt của Tòa án, tức là theo yêu cầu của một hoặc hai bên thì Tòa án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hoàn tất thủ tục, chứ không thể để như Dự thảo thì rất khó thực hiện tức là từ yêu cầu trực tiếp của các bên mà các cơ quan có thẩm quyền hoàn tất thủ tục.
Bên cạnh đó, một số ý kiến góp ý cũng có thể nghiên cứu, xem xét như: Cần xác định mục tiêu quy định hợp đồng vô hiệu là gì để định hướng điều kiện hình thức, ví dụ, ởPháp chỉ có 2 loại hợp đồng phải tuân thủ chặt chẽ hình thức là hợp đồng hôn nhân và hợp đồng bảo đảm vì mục tiêu được xác định ở đây là để bảo vệ sự đồng thuận của hai bên mà không ai có thể can thiệp kể cả Tòa án. Một quan điểm khác thì đề xuất, có thể xác định là điều kiện hình thức mà có giá trị chứng cứ thì không khiến giao dịch vô hiệu, còn nếu điều kiện hình thức có giá trị pháp lý thì khi vi phạm giao dịch sẽ vô hiệu. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, những trường hợp ngoại lệ nên để theo cách khác, vì quy định như Dự thảo hiện nay thì tương phản quá, ban đầu thì quy định rất nghiêm khắc về hình thức nhưng sau lại trừ một số trường hợp…
5. Về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người thứ ba không được bảo vệ như mua tài sản chung nhưng giấy tờ chỉ đứng tên một người, mua phải tài sản bị trộm cắp… mà người thứ ba này không thể nhận biết được. Do đó, Dự thảo lần này đã quy định hướng bảo vệ người thứ ba nhiều hơn so với luật hiện hành. Do việc quản lý ở nước ta còn hạn chế, nên chúng ta không thể tham vọng là bảo vệ cả hai bên (chủ sở hữu và người thứ ba) như nhau nên cần phải lựa chọn phương án hợp lý, tối ưu hơn. Theo đó, trong những trường hợp mà chủ sở hữu có nhiều thông tin, điều kiện hơn để kiểm soát tài sản nhưng họ lại không quan tâm đầy đủ, hay trường hợp nếu chủ sở hữu có thiệt thòi thì người hưởng lợi lại thường là người thân thích của họ, cộng thêm căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký… khi đó, những trường hợp này người thứ ba đáng được bảo vệ nhiều hơn chủ sở hữu.
Nhiều nước trên thế giới có hệ thống đăng ký an toàn, công minh nên họ nghiêng về bảo vệ người thứ ba, tức là ưu tiên đảm bảo an toàn pháp lý. Do đó, nếu ủng hộ theo hướng như Dự thảo hiện tại thì chúng ta cần phải có giải pháp thúc đẩy việc đăng ký tài sản.
Tuy nhiên, quy định trong Dự thảo cần được bổ sung thêm một số vấn đề cho đầy đủ:
– Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thế chấp thì tài sản này chỉ được chuyển giao cho bên nhận thế chấp (người thứ ba) khi bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ, như vậy, người thứ ba có được bảo vệ không?
– Trường hợp nhà ở chưa làm xong thủ tục đăng ký nhưng có giấy tờ chứng minh đã chuyển quyền sở hữu theo Điều 12 Luật Nhà ở và trường hợp chủ thể giao dịch được thực hiện các quyền sử dụng đất theo quy định Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 thì cũng cần được ghi nhận như tài sản đã đăng ký để bảo vệ người thứ ba.
6. Về hình thức sở hữu
Dự thảo đã quy định 3 hình thức sở hữu thay cho 6 hình thức ở quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, đây chính là một bước tiến trong quy định về hình thức của Bộ luật Dân sự.
Sở hữu chung và sở hữu riêng là hai hình thức nhận được sự đồng thuận cao khi đưa ra thảo luận, lấy ý kiến. Riêng đối với hình thức sở hữu toàn dân thì còn tồn tại những quan điểm khác nhau: Có quan điểm cho rằng, chỉ cần quy định hai hình thức trên, còn sở hữu toàn dân không cần vì nó chỉ là một trường hợp đặc biệt của sở hữu chung thậm chí còn có ý kiến cho nó là sở hữu riêng; theo quan điểm khác thì thay sở hữu toàn dân bằng sở hữu nhà nước vì sở hữu toàn dân chỉ là chế độ sở hữu, trong khi đó là hình thức sở hữu thì cần xác định rõ được chủ thể sở hữu là ai mà sở hữu toàn dân thì lại quá trừu tượng, mặt khác, dù quy định sở hữu nhà nước nhưng pháp luật cũng sẽ quy định cơ chế chặt chẽ Nhà nước được làm gì và như thế nào, nên không cần lo ngại việc lạm quyền; nhưng cũng không ít ý kiến ủng hộ quy định sở hữu toàn dân vì nhiều lý do như để phù hợp với Hiến pháp, không thể đồng nhất với sở hữu nhà nước, để tránh việc Nhà nước lạm quyền; nhiều ý kiến cho rằng, đồng ý là sở hữu toàn dân không thể là sở hữu chung hay sở hữu riêng (vì nó có rất nhiều đặc thù từ đối tượng tài sản cho đến cơ chế thực hiện quyền) nhưng cần phải làm rõ nội hàm của hình thức sở hữu này để có cơ chế thực hiện; thay sở hữu toàn dân thành sở hữu công cũng là ý kiến đáng lưu ý… Thêm vào đó, có quan điểm còn cho rằng, muốn phân loại thì cần phải có tiêu chí, ví dụ, nếu dựa vào số lýợng thì có sở hữu chung và sở hữu riêng, nếu dựa vào chế độ thì có sở hữu công và sở hữu tư, nếu dựa vào chủ thể thì có thể phân chia tương tự như Bộ luật Dân sự năm 2005.
Mỗi quan điểm đều có những lý giải riêng phù hợp, nhưng trong điều kiện của nước ta hiện nay, theo chúng tôi nên quy định những hình thức sở hữu như Dự thảo.
7. Về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác
Về cơ bản, chúng tôi ủng hộ quy định như Dự thảo, vì từ sự quy định này đã thể hiện sự phân biệt giữa vật quyền và trái quyền (phân biệt thời điểm xác lập quyền sở hữu, các vật quyền khác với thời điểm có hiệu lực của hợp đồng); tôn trọng, ưu tiên ý chí thỏa thuận của chủ thể hơn.
Mặc dù vậy, quy định của Dự thảo cũng cần có một số lưu ý:
– Về cơ chế xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác, đối với động sản là chuyển giao vật, còn bất động sản là đăng ký. Do đó, chúng ta cần phải có hệ thống đăng ký tin cậy để nhìn vào đó có thể xác định được chủ sở hữu tài sản.
– Khi quy định “trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác”, vậy trong trường hợp các bên thỏa thuận thì người thứ ba làm thế nào, căn cứ vào đâu để biết được chủ thể này được xác lập quyền sở hữu hay chưa?
– Cần phải dự tính một số trường hợp xảy ra như: Hợp đồng đã công chứng nhưng chưa đăng ký mà chủ thể chết; khi hệ thống đăng ký chậm, giao dịch chưa kịp đăng ký xong nhưng chủ thể đã thực hiện giao dịch (ở Đức, trong khoảng thời gian từ khi đi đăng ký đến đăng ký xong, để bảo vệ người thụ đắc trước, thì có cách thức đăng ký tạm thời)
8. Về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
Trên thực tế, đã từng xảy ra nhiều trường hợp, trong khi thực hiện hợp đồng, do hoàn cảnh thay đổi làm cho lợi ích của một bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng, rất khó khắc phục, do đó, để đảm bảo cân bằng lợi ích, Dự thảo đã cho phép các bên được điều chỉnh hợp đồng, điều này thể hiện nguyên tắc tính có giới hạn của thực hiện quyền dân sự.
Chúng tôi nhất trí với tinh thần của Dự thảo vì ngoài nguyên tắc thì cũng nên hướng tới giá trị cơ bản là lẽ công bằng. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới được đưa vào Dự thảo, dù đã từng có tiền lệ nhưng chưa thể cho là được thực tế kiểm nghiệm, trong khi lại dễ nảy sinh nhiều phức tạp, tiêu cực, do đó, khi đưa vấn đề này vào luật thì phải hết sức thận trọng. Theo kinh nghiệm của Đức, luật là do Quốc hội ban hành nhưng Tòa án phải giải thích, vì lý do an toàn pháp lý thì vấn đề điều chỉnh hợp đồng chỉ nên được sử dụng trong trường hợp ngoại lệ, hãn hữu, không nên để Tòa án từ đây lại xây dựng nên hợp đồng, hay chỉ sử dụng nó như là công cụ để xử lý tình huống cụ thể.
Điều quan trọng nhất cần quan tâm là điều kiện để được điều chỉnh hợp đồng, theo một số chuyên gia nước ngoài thì cần phải đảm bảo đủ các điều kiện: Hoàn cảnh phải thay đổi một cách rõ ràng; hoàn cảnh này khi thiết lập hợp đồng không dự đoán trước được; không do lỗi, chủ ý của một bên; gây ra sự bất bình đẳng cho các bên giao kết hợp đồng, khiến đảo lộn ý định các bên; hai bên không thương thảo được và có mong muốn thương thảo khi hoàn cảnh thay đổi. Theo ý kiến một chuyên gia khác thì trường hợp hoàn cảnh thay đổi ở đây là chưa đến mức bất khả kháng (bất khả kháng là làm cho không thực hiện được hợp đồng, còn hoàn cảnh thay đổi là làm quá mất cấn xứng 2 bên), mà phải hoàn toàn khách quan và gây ra thiệt hại rất lớn cho một bên.
Như vậy, có thể thấy Dự thảo hiện nay vẫn còn lỏng lẻo, chưa đảm bảo đầy đủ điều kiện chặt chẽ nên cần được chỉnh sửa, bổ sung:
Thứ nhất, cần quy định rõ hơn về hoàn cảnh thay đổi, trong đó cần bổ sung hoàn cảnh này phải khách quan, không do lỗi, chủ ý của bên nào.
Thứ hai, bên bị ảnh hưởng không thể làm gì để thay đổi hay giảm nhẹ thiệt hại do sự kiện đó mang lại hoặc đã thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục, giảm nhẹ thiệt hại nhưng không đạt hiệu quả.
Thứ ba, không nên quy định theo hướng Tòa án được điều chỉnh ngay mà cần phải có điều kiện là có yêu cầu của chủ thể hợp đồng và phải xuất phát từ nhu cầu muốn đàm phán, thỏa thuận của các bên.
Ngoài điều kiện, thẩm quyền của Tòa án cũng là vấn đề không thể bỏ qua. Chúng ta nên thu hẹp thẩm quyền này và đưa ra phương án bổ sung, thay thế mềm mại, phù hợp hơn để Tòa án lựa chọn giải quyết. Hạn chế trường hợp Tòa án được “phân chia” lợi ích vì như vậy là can thiệp quá sâu vào việc thực hiện hợp đồng. Đặc biệt là cần cân nhắc quyền yêu cầu “bồi thường thiệt hại”, vì trách nhiệm bồi thường này là quá nặng cho đương sự. Dự thảo cần biên soạn theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận các bên, các bên tự quyết, xây dựng trên ý chí tự nguyện.
Bên cạnh đó, một số ý kiến góp ý khác cho quy định này của Dự thảo cũng đáng lưu ý như:
– Bổ sung vai trò của trọng tài bên cạnh Tòa án, để ít nhất cũng giải quyết khắc phục được trường hợp nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
– Bỏ quy định phải bồi thường thiệt hại vì việc bồi thường này được tồn tại trong khuôn khổ chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực do từ chối đàm phán).
– Cần định ra một cách tương đối là ảnh hưởng “nghiêm trọng” đến mức nào thì cho phép điều chỉnh hợp đồng, nếu không dễ gây ra việc viện cớ để có thể đưa ra tòa giải quyết.
9. Về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
Về quy định lãi suất trần như trong Dự thảo đã tồn tại một số ý kiến lo ngại như:
Một là, lấy lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố làm tham chiếu là không phù hợp vì đây chỉ là mức lãi suất chung với mục đích điều hành chính sách tiền tệ, không mang tính thị trường, không chia thành các mức lãi suất khác nhau để áp dụng cho các hời hạn khác nhau, chủ thể khó nhận biết là có phù hợp với loại vay tương ứng hay không.
Hai là, quy định này sẽ ảnh hưởng, hạn chế việc thỏa thuận mức lãi suất giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, vì luật chuyên ngành về tín dụng cho phép các bên được thỏa thuận lãi suất, trong khi luật này lại không được trái với luật dân sự, tức là phải chịu mức khống chế lãi suất trần.
Do đó, đã có đề xuất là nên lấy lãi suất trung bình của ba liên ngân hàng lớn trong nước tương ứng làm tham chiếu, lấy mức này làm mức trần lãi xuất cho vay, hoặc là quy định lãi suất trần cụ thể.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, phương án như Dự thảo là phù hợp hơn cả vì:
– Việc quy định lãi suất trần cụ thể khó có thể phù hợp với sự phát triển năng động của nền kinh tế.
– Cần phải có căn cứ để quy định trần lãi suất và việc căn cứ vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là căn cứ đáng tin cậy, thông tin lại chính xác, rõ ràng.
– Xét về bản chất, lãi suất của ngân hàng lớn trong nước cũng dựa trên lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ khác về biên độ % lãi suất cộng dồn như thế nào đối với Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, khi áp dụng theo phương án lấy lãi suất trung bình của ba liên ngân hàng lớn lại nảy sinh vấn đề liệu những ngân hàng này có được lựa chọn cố định hay thay đổi theo thời gian; ngân hàng lớn là ngân hàng thế nào…
– Dự thảo quy định lãi suất trần là để tránh hiện tượng cho vay nặng lãi, chủ yếu điều chỉnh giữa các chủ thể thông thường trong quan hệ pháp luật dân sự, còn với những quan hệ đặc thù như tín dụng, luật cũng đã quy định mềm dẻo bằng quy định “trừ trường hợp luật có quy định khác”, tức là nếu luật về tín dụng mà quy định khác thì sẽ áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành.
Nhưng Dự thảo có thể bổ sung quy định việc phân khúc một số lãi suất, như vậy sẽ hoàn thiện hơn.
10. Về thời hiệu
Dự thảo đã bỏ quy định về thời hiệu khởi kiện, thay vào đólà quy định chung về thời hiệu và thời hiệu thừa kế theo hướng: Cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu Tòa án giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định; hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu như quy định hiện hành, Tòa án vẫn phải thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự.
Việc bỏ quy định thời hiệu khởi kiện như Dự thảo là phù hợp, vì nếu đi sâu tìm hiểu về giải quyết tranh chấp thực tế sẽ cho thấy, việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện hành chưa giúp giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật để xử lý nội bộ với nhau, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Không quy định thời hiệu khởi kiện còn có mục đích rất quan trọng là hạn chế tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc, làm cho quyền lợi của người dân không được bảo đảm. Bên cạnh đó, điều này cũng là phù hợp với kinh nghiệm nhiều nước có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Về thời hiệu, các quan điểm thường xoay quanh nhiều vấn đề liên quan đến thời hiệu thừa kế. Có ý kiến cho rằng, thời hiệu khởi kiện về thừa kế vẫn tồn tại chỉ là thay tên điều luật thành thời hiệu thừa kế. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng ý nghĩa của thời hiệu này đã thay đổi, vì Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết khi hết thời hạn này, mà khi đó Tòa án phải giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Cũng có quan điểm cho rằng không nên áp dụng thời hiệu thừa kế đối với di chúc chung, hạn chế phân chia di sản và di sản thờ cúng, theo đó, nếu đã có tư cách thừa kế thì hưởng quyền yêu cầu, khi đó dù bao nhiêu năm vẫn được chia di sản, chỉ áp dụng thời hiệu đối với trường hợp người muốn kiện để đảm bảo tư cách thừa kế của mình. Cũng có quan điểm cho rằng không nhất thiết đưa thời hiệu cụ thể hoặc tăng thời hiệu thừa kế lên…
Uyên Nhi
Tham khảo thêm:
- Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
- Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay
- Cần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất
- Người chưa thành niên phạm tội – Các biện pháp hạn chế
- Pháp luật Triều Nguyễn và một số giá trị cơ bản của nó
- Bàn về khái niệm “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” trong quan hệ hợp đồng
- Những khác biệt của truyền thống pháp luật Common Law với truyền thống pháp luật Việt Nam
- Quyền bình đẳng giới – Quyền cơ bản của con người
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thực hiện biện pháp áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính thuộc chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của bộ đội biên phòng
- Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Thanh tra năm 2010