Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự nhìn từ thực tiễn xét xử

Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự nhìn từ thực tiễn xét xử

28/10/2014

Quyền dân sự hợp pháp của chủ thể trong quan hệ giao dịch dân sự là quyền được pháp luật bảo vệ, trong đó bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản. Khi xác lập giao dịch dân sự, đa số các chủ thể đều muốn tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ do các bên đã thỏa thuận, nhưng trong thực tế, không ít trường hợp, vì những lý do khác nhau mà các chủ thể không thể tự mình thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ đã thiết lập bởi chủ thể không còn “tồn tại”. Khi đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) một số quan hệ sẽ đương nhiên chấm dứt và nhất là các quan hệ về nhân thân, mặc nhiên sẽ chấm dứt. Ngoài ra, luật cũng quy định một số trường hợp khi các bên chủ thể mặc dù không còn tồn tại nhưng một số quan hệ do chủ thể đó thiết lập vẫn tiếp tục được duy trì và những người kế thừa sẽ tiếp tục thực hiện. Điều 636 BLDS có quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”, đối với các chủ thể quyền thì quyền đó được chuyển giao và bên nhận chuyển giao được gọi là bên thế quyền.

Thỏa thuận của các bên trong quan hệ giao dịch dân sự là theo ý chí của các bên, nhưng có một sự “ràng buộc” là không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Một trường hợp được xem là các bên không được thỏa thuận trái pháp luật đó là các bên không được thỏa thuận chuyển giao quyền như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 309 BLDS: “Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thoả thuận, trừ những trường hợp sau đây: a) Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín;…”, như vậy, quan hệ trong trường hợp này cũng được xem như sẽ chấm dứt khi bên có quyền chết.

Nhìn từ góc độ quy định của luật tại điểm a khoản 1 Điều 309 BLDS, thì dù các quyền tài sản gắn liền với nhân thân cũng không thể thỏa thuận chuyển giao, hay nói cách khác, nếu có thỏa thuận mà khi có tranh chấp cũng không được bảo vệ, bởi về nguyên tắc thì thỏa thuận trên đã trái luật. Trái lại, với quy định tại Điều 636 BLDS thì được hiểu rằng các quyền tài sản mặc nhiên sẽ được thừa kế và không loại trừ trường hợp ngoại lệ, nghĩa là các quyền tài sản gắn liền với nhân thân cũng sẽ được thừa kế.

Một ví dụ sau đây sẽ minh họa rõ cho nhận định trên, vụ án dân sự về việc “yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Nghị quyết số 388”[1] (Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra). Trong vụ án này, ông Cung là người bị bắt oan sai, phải chịu thời gian tạm giam, thụ án tại trại giam theo Bản án hình sự phúc thẩm số 205/HS-PT ngày 20/10/1985. Đến ngày 29/8/1987, tại Bản án giám đốc thẩm số 42/UB của Ủy ban Thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao đã tuyên bố ông Cung không có trách nhiệm hình sự về các hành vi đã nêu tại bản án hình sự phúc thẩm.

Từ đây, phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại như thu nhập bị mất trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam và hàng loạt các thiệt hại khác được liệt kê, trong đó đáng chú ý là khoản thiệt hại do tổn thất về tinh thần cũng được đề cập, khoản thiệt hại này là yêu cầu hợp lý, chính đáng của chủ thể bị xâm hại. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào phân tích tính đúng đắn của các bản án hình sự sơ thẩm cũng như bản án hình sự phúc thẩm, mà chỉ quan tâm đến vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự và tập trung vào vấn đề thừa kế quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Trong số các khoản yêu cầu bồi thường thiệt hại được nêu ra thì khoản thiệt hại do tổn thất về tinh thần cần được lưu ý, bởi yêu cầu bồi thường này xét về bản chất là quyền tài sản gắn liền với nhân thân. Vấn đề đặt ra là, nếu người bị thiệt hại là nguyên đơn dân sự và được Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu bồi thường thì mọi chuyện đã rõ, không có gì phải bàn cãi. Nhưng ở đây, trong vụ án này thì nguyên đơn là con của người bị thiệt hại, là những người thừa kế của ông Cung, như vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần có được Tòa án chấp nhận, bởi đây là quyền tài sản gắn liền với nhân thân của người bị thiệt hại? Thực tiễn xét xử của Tòa án tỉnh Gia Lai tại bản án dân sự phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu bồi thường này với quyết định như sau: “Buộc Tòa phúc thẩm (bản án hình sự) bồi thường cho ông Cung, thông qua người đại diện theo pháp luật là bà Oanh và ông Hiển (con của ông Cung) số tiền thiệt hại do tổn thất về tinh thần là…”.

Như vậy, các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu được quy định tại Mục 4 Chương XVII Phần thứ ba BLDS (trong đó có Điều 309) không đề cập đến vấn đề chuyển quyền yêu cầu theo pháp luật và dù các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại gắn liền với nhân thân có được các bên thỏa thuận chuyển giao cũng không được ghi nhận cho sự thỏa thuận đó. Tuy vậy, tại một phần khác của BLDS lại ghi nhận sự thừa kế quyền, nghĩa vụ tài sản mà không giới hạn là quyền độc lập hay quyền tài sản có gắn liền với nhân thân (như Điều 636).

Thực tiễn, Tòa án khi xét xử vụ án đã khai thác Điều 636 khá triệt để, thể hiện ở sự thừa nhận quyền yêu cầu về tài sản gắn liền với nhân thân (quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần) được chuyển giao cho người thừa kế và quyền này được chấp nhận. Theo chúng tôi, điều đó là hợp lý bởi không có lý do gì để từ chối “quyền tài sản gắn liền với nhân thân” này, do đó, Tòa án hoàn toàn có cơ sở để chấp nhận yêu cầu bồi thường từ các con của ông Cung.

Trở lại quy định tại điểm a khoản 1 Điều 309 BLDS, xét về nội hàm thì các bên trong quan hệ giao dịch dân sự không thể thỏa thuận chuyển giao quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân. Ở đây, rõ ràng đối tượng của quyền yêu cầu mang tính nhân thân, trong khi đó quyền yêu cầu là quyền tài sản, mà nguyên nhân xuất phát từ đối tượng mang tính nhân thân bị xâm phạm. Như vậy, xét về bản chất vấn đề thì quyền yêu cầu này là quyền tài sản mà quyền này sẽ được thừa kế (nếu xảy ra trường hợp như bản án nêu trên), vậy tại sao lại không cho phép các chủ thể chuyển giao theo thỏa thuận? Có điều gì đó còn chưa rõ ràng ở đây, phải chăng các nhà làm luật có một sự nhằm lẫn hay còn ẩn ý gì bên trong trong quy định tại điều luật này? Trong giai đoạn dự thảo sửa đổi BLDS, nên chăng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 309 BLDS cần được sửa đổi để có sự nhất quán với những quy định khác về cùng vấn đề này, cụ thể bỏ đi điểm a khoản 1 Điều 309 BLDS. Bên cạnh đó, chúng tôi mong rằng quy định của BLDS liên quan đến vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu sẽ được các nhà lập pháp làm sáng tỏ và minh thị trong Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung để làm cơ sở cho việc hiểu và vận dụng pháp luật được thông suốt, triệt để.

Trương Thị Mỹ Hạnh

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh



[1] Bản án số 64/2010/DS-PT ngày 27/5/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai V/v: “Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Nghị quyết 388”.

Tham khảo thêm:

1900.0191