Đặc điểm pháp lý và các mối liên hệ cơ bản của quản tài viên
Qua nghiên cứu tổng quan, hầu hết pháp luật các nước đều xác định chủ thể quản lý, thanh lý tài sản có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản. Điều này phù hợp với mục đích và tính chất của việc giải quyết phá sản là nhằm thu hồi được nhiều nhất tài sản từ con nợ cho chủ nợ, đồng thời điều hòa lợi ích giữa các bên, bảo đảm phân chia tài sản một cách công bằng và đúng luật. Vì vậy việc quản lý, giám sát, bảo toàn, thậm chí làm gia tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là một yêu cầu cần thiết và chính yếu trong giải quyết phá sản. Luật Phá sản năm 2014 quy định chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, đồng thời trao cho các chủ thể này nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng, xác định rõ trách nhiệm pháp lý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Quản tài viên theo Luật Phá sản năm 2014 có những đặc điểm pháp lý riêng biệt và có mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể và định chế của Luật Phá sản.
1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của Quản tài viên
Luật Phá sản năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù của đất nước đã thiết lập mô hình chủ thể thực hiện chức năng quản lý, thanh lý tài sản phá sản là những thiết chế tập thể (Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản trong Luật Phá sản năm 1993, Tổ quản lý và thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004). Theo quy định tại khoản 7, Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 thì “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”. Nghiên cứu về Quản tài viên cho thấychủ thể này những đặc điểm pháp lý sau:
– Quản tài viên là thiết chế cá nhân, nhân danh cá nhân thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Đây là điểm khác biệt của Luật Phá sản năm 2014 so với Luật Phá sản năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004. Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản theo Luật phá sản năm 1993, Tổ quản lý và thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004 là thiết chế tập thể bao gồm đại diện của các cơ quan chuyên môn thuộc Nhà nước, đại diện người lao động, Ban chấp hành Công đoàn, đại diện chủ nợ, nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện hoạt động này.
– Quản tài viên là thiết chế vừa đại diện chủ nợ, vừa đại diện cho con nợ, vừa đại diện cho Nhà nước trong trong quá trình giải quyết phá sản. Sau khi được Tòa án ra quyết định chỉ định, Quản tài viên có vị trí độc lập với cả hai bên chủ nợ và con nợ, vừa là người đại diện cho lợi ích của chủ nợ và cả con nợ. Tuy nhiên khác với các trường hợp đại diện thông thường, là sự đại diện theo ủy quyền giữa người ủy quyền và người nhận ủy quyền, Quản tài viên đại diện cho các chủ thể trên cơ sở quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật); nói cách khác, pháp luật trao cho họ những nhiệm vụ, quyền hạn để bảo vệ lợi ích cho cả chủ nợ, con nợ và Nhà nước, họ là “nhân vật chính” trong quá trình thực hiện các thủ tục phá sản.
Quản tài viên đại diện cho chủ nợ thể hiện ở chỗ, sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đề thu hồi nợ, thì hầu như họ không trực tiếp thực hiện việc đòi nợ với con nợ mà Quản tài viên do Tòa án chỉ định đã đứng ra thực hiện các thủ tục thu hồi nợ cho họ. Trong cả hai trường hợp, nếu doanh nghiệp thực hiện thành công phương án phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc phải thanh lý tài sản thì mục đích đều nhằm thu hồi lại nợ cho các chủ nợ; các biện pháp bảo toàn hay xử lý tài sản đều nhằm bảo đảm cho lợi ích của chủ nợ một cách cao nhất. Ngoài ra, khi xét người lao động với tư cách là một loại chủ nợ thì Quản tài viên còn đại diện cho người lao động thực hiện thu hồi các khoản nợ tiền công, tiền lương, bảo hiểm… cho người lao động.
Quản tài viên đại diện cho con nợ khi thay mặt cho con nợ thực hiện việc thanh toán với các chủ nợ theo quy định của pháp luật. Quản tài viên còn đại diện cho con nợ đàm phán thỏa thuận với chủ nợ về phương án phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, giúp con nợ vượt qua khó khăn, thanh toán được các khoản nợ, tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Chính điều này khẳng định ưu điểm của tố tụng phá sản là có tác dụng “khai tử” cho các doanh nghiệp mắc nợ một cách hòa bình và có trật tự.
Quản tài viên đại diện cho Nhà nước, bởi họ là người được Tòa án chỉ định, thay mặt Tòa án thực hiện các thủ tục pháp lý nhằm giải quyết việc phá sản, nói cách khác họ được pháp luật trao quyền giải quyết vụ việc phá sản và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Mặt khác, hoạt động của họ cũng nhằm thu hồi các khoản nợ đọng thuế, các khoản phí phát sinh trong quá trình giải quyết việc phá sản cho Nhà nước.
-Hoạt động của Quản tài viên là hoạt động nghề nghiệp, mang tính chuyên nghiệp cao. Hoạt động của Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản và Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 1993 và Luật phá sản năm 2004 như đã phân tích là hoạt động vừa mang tính quyền lực nhà nước, vừa mang tính xã hội, do các thành viên đại diện cho nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện, phục vụ mục tiêu của Nhà nước là nhằm giải quyết việc phá sản có hiệu quả, bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, con nợ, người lao động. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 1993 và 2004 cho thấy, do Luật không xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên đã dẫn đến tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, việc thực hiện các thủ tục pháp lý do Tổ thực hiện thường bị chậm trễ, hiệu quả thấp. Quản tài viên là chức danh được bổ nhiệm từ những cá nhân có chuyên môn, nghiệp vụ (Luật sư, Kiểm toán viên, người có trình độ về kế toán, tài chính, pháp luật) phù hợp với hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vốn có đặc điểm vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính kinh tế. Ngoài ra, họ còn phải đáp ứng được yêu cầu về thời gian, kinh nghiệm công tác, phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. Tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động của Quản tài viên còn được thể hiện bởi pháp luật có quy định chặt chẽ, toàn diện về nguyên tắc hành nghề, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên, đặc biệt quy định những hành vi bị nghiêm cấm, trách nhiệm pháp lý của Quản tài viên trong hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Có thể nói, với những quy định về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Luật Phá sản năm 2014 đã tạo ra một nghề nghiệp mới – nghề quản lý và thanh lý tài sản ở Việt Nam, thêm một nội dung hoạt động vốn thuộc chức năng của Nhà nước đã được xã hội hóa.
– Hoạt động quản lý, thanh lý tài sản do Quản tài viên thực hiện là hoạt động dịch vụ,mang tính kinh tế. Đặc điểm này được thể hiện ở điểm: Ngoài việc hưởng các chi phí khác như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản, mục đích hoạt động của Quản tài viên nhằm hướng tới lợi ích vật chất (thù lao được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản). Thù lao của Quản tài viên được chi trả từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã dựa trên cơ sở thời gian, công sức, kết quả thực hiện nhiệm vụ của Quản tài viên (Khoản1, Điều 24 Luật Phá sản năm 2014) và được xác định bằng nhiều phương thức như: Căn cứ vào giờ làm việc của Quản tài viên, thỏa thuận mức thù lao trọn gói hoặc mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thu được sau khi thanh lý. Tuy nhiên, dù xác định theo phương thức nào thì thù lao cũng phải bảo đảm tương xứng với thời gian, công sức và kết quả lao động của Quản tài viên. Như vậy, giá trị sức lao động của Quản tài viên được xác định trên cơ sở giá cả thị trường và mục đích của hoạt động cung cấp dịch vụ này là lợi ích kinh tế. Đối với Tổ quản lý và thanh lý tài sản, do thành viên hầu hết là đại diện các cơ quan Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, trong quá trình tham gia hoạt động quản lý, thanh lý tài sản họ vẫn thực hiện nhiệm vụ thường xuyên nơi công tác,vì vậy mức thù lao họ được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản chỉ mang tính “hỗ trợ”, không được xác định trên cơ sở giá cả thị trường, nhìn chung mức chi thấp, không phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội thực tế và không tương xứng với công sức nên không động viên, khích lệ được họ tích cực thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản.
2. Các mối liên hệ cơ bản của Quản tài viên
2.1. Với Tòa án
Giống như Luật Phá sản của hầu hết các nước, Luật Phá sản của Việt Nam quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản. Tòa án là trung tâm, nhân danh Nhà nước đưa ra các quyết định có tính chất pháp lý nhằm phục vụ việc quản lý, thanh lý tài sản của con nợ, mặt khác, giúp chủ nợ, con nợ và các chủ thể liên quan đạt được thỏa thuận trong phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc phân chia tài sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp nói chung và việc quản lý, thanh lý tài sản nói riêng được pháp luật quy định là một quá trình lâu dài và phức tạp. Các hành vi tố tụng này chủ yếu được thực hiện bởi Thẩm phán. Ở Việt Nam, Thẩm phán giữ vai trò quyết định và là trung tâm xuyên suốt các giai đoạn của tố tụng phá sản. Điều này được giải thích bởi Tòa án là cơ quan quyền lực có vai trò là trọng tài, điều hòa lợi ích của các bên trong quá trình giải quyết việc phá sản; ổn định hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung; tránh được tình trạng lộn xộn, chụp giật của các chủ nợ và các bên liên quan trong điều kiện trình độ nhận thức pháp luật của các doanh nghiệp đều chưa cao.
Thẩm quyền của Tòa án trong quản lý, thanh lý tài sản được thực hiện gián tiếp thông qua Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài viên do Thẩm phán chỉ định và thay mặt cho Thẩm phán thực hiện chức năng giám sát, quản lý toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ thời điểm mở thủ tục phá sản cho đến khi tuyên bố phá sản. Quan hệ giữa Thẩm phán và Quản tài viên là quan hệ giữa người phụ trách và người thừa hành, thực thi nhiệm vụ được giao; Thẩm phán là người chỉ định đồng thời giám sát, kiểm tra hoạt động của Quản tài viên, ngược lại, Quản tài viên phải báo cáo toàn bộ hoạt động với Thẩm phán, trên cơ sở đó Thẩm phán đưa ra các quyết định pháp lý nhằm quản lý và thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của chủ thể này là rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng giải quyết vụ việc phá sản của Tòa án, Tòa án dựa vào báo cáo của Quản tài viên để quyết định các vấn đề pháp lý căn bản. Quản tài viên chính là đại diện của Tòa án và suy cho cùng là nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý, xử lý tài sản của con nợ nhằm thực hiện mục đích của việc phá sản.
2.2. Với chủ nợ
Quản tài viên là đại diện cho chủ nợ khi thực hiện nhiệm vụ của mình, mục đích hoạt động của Quản tài viên nhằm thu hồi lại các khoản nợ cho chủ nợ. Sau khi được Tòa án chỉ định, hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vốn là công việc của các chủ nợ được chuyển giao cho chủ thể này. Trong quá trình đó, sự phối hợp giữa hai chủ thể này là rất quan trọng, Quản tài viên có quyền yêu cầu chủ nợ xuất trình các chứng cứ chứng minh các khoản nợ; cung cấp thông tin về tình hình tài chính, khả năng tài sản của con nợ; ngoài ra còn có quyền triệu tập chủ nợ tham dự Hội nghị chủ nợ để bàn bạc, thông qua phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề quan trọng khác khi cần thiết.
Ngược lại các chủ nợ nhân danh cá nhân hoặc thông qua Hội nghị chủ nợ có quyền đề nghị Thẩm phán cử người quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; quyền đề xuất với Tòa án tên Quản tài viên trước khi mở thủ tục phá sản; thảo luận và thông qua các nội dung mà Quản tài viên đưa ra, đồng thời giám sát hoạt động của chính chủ thể này; quyền kiến nghị Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con nợ… Ngoài ra, ở các nước mà chủ thể quản lý tài sản là các cá nhân hoạt động chuyên nghiệp thì giữa chủ nợ và nhân viên quản lý tài sản còn bị ràng buộc bởi hợp đồng thuê khoán dịch vụ, trong đó, chủ nợ là người thuê và phải xác định được mức phí chi trả; nhân viên quản lý tài sản phải thực hiện những nghĩa vụ theo hợp đồng đã cam kết.
2.3. Với con nợ
Quản tài viên không chỉ đại diện cho chủ nợ mà còn là đại diện cho con nợ. Điều đó xuất phát từ mục đích của phá sản không chỉ bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ mà còn bảo đảm tính công bằng, nhân đạo, giúp cho con nợ thoát khỏi tình trạng nợ nần với sự bảo đảm pháp lý, qua đó, bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế. Quản tài viên thay mặt cho con nợ để thực hiện việc thanh toán với các chủ nợ theo quy định của pháp luật, tránh được tình trạng xiết nợ hoặc phân chia nợ không công bằng và bất hợp pháp. Các con nợ hoàn toàn có quyền yên tâm về các khoản nợ của mình, bởi Quản tài viên không chỉ giúp họ thanh lý, phân chia tài sản một cách công bằng và đúng luật, kể cả trong trường hợp tài sản còn lại của họ không đủ để thanh toán hết các khoản nợ mà còn giúp họ thực hiện việc phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Quản tài viên có quyền lập bảng kê toàn bộ tài sản của con nợ; giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của con nợ và nếu phát hiện con nợ có vi phạm thì có quyền xử lý hoặc đề nghị Thẩm phán xử lý theo thẩm quyền; quyền đề nghị Thẩm phán áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản khi con nợ có dấu hiệu tẩu tán, cất giấu hoặc làm thất thoát tài sản. Ngược lại, các con nợ với mục đích thanh toán nợ trên cơ sở số tài sản hiện có, có quyền và trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài sản; sự trung thực và tích cực của họ là nhân tố quan trọng làm nên hiệu quả của vụ việc phá sản; đồng thời họ cũng có quyền kiến nghị khi thấy Quản tài viên không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, thậm chí, có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi gây thiệt hại đến tài sản của họ.
2.4. Quản tài viên và sản nghiệp phá sản
Nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt của Quản tài viên là kiểm tra, phát hiện, bảo toàn, thậm chí làm gia tăng khối tài sản phá sản nhằm bảo đảm thu hồi được nhiều nhất lợi ích cho các chủ nợ. Chính vì vậy, pháp luật các nước luôn cho phép Quản tài viên (hoặc các cá nhân có tên gọi khác) được thực hiện những quyền năng nhất định để thực hiện nhiệm vụ này. Xét theo nghĩa rộng thì sản nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản nợ và tài sản có của doanh nghiệp, và như vậy, nhiệm vụ của Quản tài viên không không chỉ nhằm phát hiện, bảo toàn và phát triển khối tài sản có mà còn hướng tới việc xác định tập hợp tài sản nợ một cách chính xác, đầy đủ để có một kết quả về tài sản thực có. Tài sản thực có sẽ được dùng để phân chia cho các chủ nợ một cách đầy đủ nhất. Có thể nói, tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là đối tượng hướng tới trong hoạt động của Quản tài viên nói riêng, các chủ thể trong quá trình giải quyết phá sản nói chung.
Bên cạnh những mối liên hệ cơ bản trên, Quản tài viên có mối quan hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết phá sản như với người lao động tại doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, với Công đoàn và các tổ chức đoàn thể của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bảo vệ lợi ích của người lao động, với các cơ quan Nhà nước khi thực hiện việc truy thu thuế, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền đưa ra các quyết định hành chính liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã, với các tổ chức kinh tế, cá nhân có liên quan trong việc xác minh, xử lý giao dịch liên quan đến tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã…khi thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản.
Việc nghiên cứu đặc điểm pháp lý và các mối liên hệ cơ bản của Quản tài viên giúp chúng ta nhận diện được bản chất và nhìn nhận về chủ thể này một cách đầy đủ, toàn diện nhất, đồng thời, đặt ra yêu cầu phải xây dựng Quy chế pháp lý về Quản tài viên phù hợp, qua đó, nâng cao hiệu quả thực thi của chế định Quản tài viên nói riêng, của Luật Phá sản nói chung.
ThS. Đặng Văn Huy
Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp
Tham khảo thêm:
- Lạng Sơn với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Thực trạng bán hàng đa cấp ở TP. Hồ Chí Minh
- Một số bất cập về cách tính thời hạn khởi kiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
- Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
- Một số kết quả sau 2 năm triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
- Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam
- Thực tiễn công tác giải quyết các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài có khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự
- Thu hồi tài sản tham nhũng theo Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay – Một số vấn đề đặt ra
- Luật Lý lịch tư pháp – Một số bất cập khi áp dụng trong thực tế
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử – Một số bất cập và hướng hoàn thiện