Một vài suy nghĩ về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
1. Quốc hội và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1). Vai trò, vị trí đặc biệt của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ta, được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; làm và sửa đổi Hiến pháp, luật để định ra các thiết chế nhà nước với chức năng nhiệm vụ xuất phát từ Hiến pháp, hay nói một cách khác, Quốc hội bằng quyền lập hiến và lập pháp của mình, quy định cụ thể tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước.
Thứ hai, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với vị trí đặc biệt của Quốc hội nêu trên, do đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, ngoài những nội dung và phương thức lãnh đạo mang tính phổ biến trong việc lãnh đạo Nhà nước nói chung, thì phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội cũng có những hình thức biểu hiện, mức độ cũng như phương thức cụ thể không thể hoàn toàn giống như đối với các thiết chế khác của Nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Đây là một thiết chế tạo lập ra nền tảng pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và xã hội – thiết chế đó vừa là Nhà nước, vừa là nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội cũng cần phải phù hợp với vị trí đặc thù này của Quốc hội – xét cả về ý nghĩa chính trị và pháp lý. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội không đặt mình đứng trên Quốc hội, không đứng ngoài Quốc hội, không áp đặt nội dung lãnh đạo của mình, mà là sự lãnh đạo đứng trong Quốc hội, tạo điều kiện để Quốc hội thực quyền trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở nước ta là tất yếu. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng và lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Vị trí lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng được quy định bởi Hiến pháp “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(2). Song Đảng lãnh đạo Quốc hội như thế nào và bằng phương thức gì luôn là vấn đề hệ trọng mà Đảng luôn phải tìm tòi sáng tạo và vận dụng hợp lý trong từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Do đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Quốc hội chính là yếu tố có ý nghĩa quan trọng tới việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
2. Một số nét về thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua đường lối, quan điểm, các nghị quyết, các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về vấn đề hệ trọng của đất nước. Phương thức này là phương thức quan trọng, cơ bản nhất để Đảng lãnh đạo Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng. Phương thức lãnh đạo này của Đảng nhằm tác động đầu tiên đến định hướng lập pháp của Quốc hội và là cơ sở chính trị để Quốc hội xây dựng luật. Trên cơ sở đường lối và nghị quyết của Đảng, Quốc hội xây dựng kế hoạch lập pháp cụ thể.
Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội trong hoạt động lập pháp. Phương thức này hiện nay được thực hiện có hiệu quả, bảo đảm để nội dung Đảng lãnh đạo Quốc hội trong hoạt động lập pháp được giữ vững. Đảng đoàn Quốc hội là một tổ chức Đảng thực sự chịu sự lãnh đạo, quản lý của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị.
Đảng lãnh đạo bằng thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội và đảng viên và Đảng lãnh đạo thông qua việc lãnh đạo các cuộc bầu cử Quốc hội, thống nhất quản lý, giới thiệu và quyết định cán bộ ở một số chức vụ nhất định của Quốc hội.
Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với Quốc hội nói riêng cần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đánh giá về kết quả làm được là “Đảng đã từng bước cụ thể hóa và thể chế hóa các quan điểm của Cương lĩnh về phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy tốt hơn vai trò của các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, khắc phục dần khuynh hướng Đảng bao biện làm thay, cũng như buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng”(3). Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị”(4).
Bên cạnh đó những khuyết điểm, yếu kém, “việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng. Chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc”(5). “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều”(6).
Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua định hướng hoạt động lập pháp, thông qua cơ sở chính sách pháp luật, thông qua mục đích của các đạo luật. Trên cơ sở đó Quốc hội xây dựng từng điều, kết cấu của luật, kỹ thuật lập pháp. Trước các kỳ họp Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội báo cáo với Bộ Chính trị về chương trình, nội dung của các kỳ họp, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm hoặc cả khoá.
Kiểm tra, giám sát vừa là nội dung vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế kiểm tra, giám sát chưa thực sự có hiệu quả đối với quá trình xây dựng và thi hành pháp luật. Một số đạo luật ban hành sau khi có hiệu lực phải chờ các cơ quan quản lý nhà nước ra văn bản dưới luật, như thông tư, hướng dẫn thì mới được áp dụng. Từ đó, các ngành, các cấp rơi vào tình trạng chờ hướng dẫn, hoặc có những vận dụng theo cách hiểu chủ quan.
Các đại biểu Quốc hội và cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Quốc hội đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Những năm gần đây, nhiều cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực luật pháp đã được giới thiệu, đề cử, điều động và bổ nhiệm trong các cơ quan của Quốc hội. Thông qua việc giới thiệu nhân sự và những cán bộ, đảng viên chủ chốt này, Đảng đã thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với Quốc hội một cách toàn diện. Bên cạnh đó, việc giới thiệu cán bộ cho Quốc hội có lúc vẫn chưa ngang tầm với yêu cầu về nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.
3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
Để phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế nêu trên, theo chúng tôi, nên rút ra một số nhận định làm căn cứ cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo.
Mỗi thời kỳ, Đảng phải có sự đổi mới về phương thức lãnh đạo cho phù hợp với nội dung lãnh đạo. Do mỗi giai đoạn có những đặc trưng riêng về điều kiện kinh tế – xã hội, nên chủ trương, đường lối của Đảng trong các giai đoạn là khác nhau, do đó phương thức lãnh đạo của Đảng với Quốc hội không thể bất biến, mà cũng phải có những thay đổi, tương thích với tình hình.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có quan hệ hữu cơ với trình độ dân trí và trình độ dân chủ của xã hội. Khi dân chủ ngày càng được mở rộng, dân trí ngày càng được nâng cao, thì sự lãnh đạo của Đảng cũng phải được nâng cao cả về khoa học, tính thuyết phục và không thể lãnh đạo theo kiểu áp đặt thuần túy. Nhân dân với trình độ và ý thức chính trị cao, thì càng đòi hỏi tổ chức Đảng và đảng viên phải gương mẫu, được tham gia ngày càng sâu rộng, trực tiếp vào các công việc của Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng và giám sát các hoạt động này.
Phương thức lãnh đạo của Đảng vừa tùy thuộc, vừa phải phản ánh được sự trưởng thành của tổ chức Đảng, của cán bộ, đảng viên. Khi trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao thì các tổ chức Đảng sẽ trưởng thành cả về nhận thức và khả năng lãnh đạo. Mà mỗi bước trưởng thành của Đảng đòi hỏi phải có sự cải tiến về phương thức lãnh đạo.
Phương thức lãnh đạo phải căn cứ vào điều kiện vật chất và phương tiện phục vụ sự lãnh đạo. Sự phát triển nhanh chóng, đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải được thực hiện trên cơ sở bám sát và cập nhật thường xuyên thông tin một cách chính xác và đa chiều. Nếu không có thông tin, hoặc thông tin chậm, thông tin không đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến việc ra quyết định, ảnh hưởng đến sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Điều đó đòi hỏi việc nâng cao và hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị làm việc, với cách thức làm việc từ xa, họp, giao ban qua mạng, lưu trình công việc…
Từ những phân tích, nhận định, suy nghĩ trên chúng tôi thấy đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội nên tập trung ở một số nội dung:
Một là, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội thông qua cơ chế giám sát, kiểm tra việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thiết lập và thực hiện cơ chế bỏ phiếu bất tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn.
Hai là, tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng trong công tác xây dựng Hiến pháp và pháp luật, mở rộng dân chủ trong lãnh đạo bầu cử Quốc hội, các quan điểm về xây dựng pháp luật.
Đảng chỉ cho ý kiến về tính cần thiết khi xây dựng luật, phương hướng, mục tiêu chung mà dự thảo luật cần phải đạt được, còn Quốc hội cần thể chế hoá quan điểm của Đảng trong xây dựng luật.
Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cơ quan giúp việc của Quốc hội.
Theo chức năng của Quốc hội nước ta, Quốc hội có quyền giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước. Đây là chức năng rất quan trọng của Quốc hội, nhưng trên thực tế, kết quả còn hạn chế. Một phần do năng lực của Quốc hội, phần vì các điều kiện, cơ chế chưa cho phép Quốc hội thực hiện đầy đủ và mạnh mẽ chức năng này. Gần đây Quốc hội đã làm tốt việc chất vấn các thành viên của Chính phủ (cả ở Quốc hội và họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội), song nếu đứng ở vai trò phản biện thì chưa thực hiện rõ. Những việc này rất cần có sự tham mưu, giúp việc của cơ quan chuyên trách, giúp việc của Quốc hội.
Bốn là, nghiên cứu để từng bước thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.
Vấn đề quan trọng đặt ra là việc thể chế hoá, cụ thể hoá vai trò, chức năng tổ chức và hoạt động của các tổ chức Đảng ở các cấp, các ngành cho phù hợp với tình hình mới để vừa phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Hiện nay, Đảng có những quy định mà tổ chức Đảng và đảng viên được hay không được làm. Những quy định này nên sớm luật hoá, chẳng hạn: Sự tham gia của đảng viên vào các cơ quan dân cử, vào những chức vụ chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ; quyền hạn, trách nhiệm và quy trình Đảng lãnh đạo việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội…
Năm là, nâng cao tính thuyết phục trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.
Đảng muốn phát huy và sử dụng có hiệu quả quyền lực chính trị của mình thì không thể không dùng biện pháp giáo dục và thuyết phục. Muốn nâng cao tính thuyết phục trong lãnh đạo, tổ chức Đảng và đảng viên phải thực sự có trí tuệ, thực sự biết lắng nghe nhân dân, những ý kiến tâm huyết của các đại biểu Quốc hội, biết tập hợp và quy tụ ý kiến trong Quốc hội.
Sáu là, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, từ đó đúc kết, phát triển lý luận, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; hiện đại hoá công cụ, phương tiện phục vụ Đảng, phục vụ Quốc hội.
Chú trọng công tác điều tra xã hội học, điều tra dư luận xã hội, làm điểm một số mô hình…, tăng cường việc tham mưu, cố vấn của các nhà khoa học, các chuyên gia, của các tầng lớp nhân dân vào chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Đầu tư các trang thiết bị hiện đại đi đôi với mục đích sử dụng và khả năng sử dụng trang thiết bị đó, sao cho phục vụ tốt nhất cho công việc của Quốc hội.
ThS. Đỗ Việt Hà
Tài liệu tham khảo
(1)Điều 1, Luật Tổ chức Quốc hội
(2) Điều 4, Hiến pháp năm 1992
(3) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2006, tr. 268
(4) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2011, tr. 164 và 165
(5) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2006, tr. 272 và 273
(6) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2011, tr. 175
Tham khảo thêm:
- Luật Tiếp công dân năm 2013 – Cơ sở pháp lý quan trọng góp phần đổi mới công tác tiếp công dân và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Tham gia Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) – Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
- Hoàn thiện các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự Việt Nam
- Hoàn thiện các quy định của Bộ Luật hình sự liên quan đến tội phạm và trách nhiệm hình sự
- Từ vụ Thẩm mỹ viện Cát Tường – Những điều cần suy ngẫm!
- Mối liên hệ giữa chính sách pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật
- Cần một góc nhìn mới về hiện đại hóa nền hành chính ở Việt Nam
- Vai trò của gia đình trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới
- Tội phạm về tiền giả và một số kiến nghị trong công tác phòng, chống tội phạm
- Quyền con người trong tố tụng dân sự Việt Nam