Quyền con người trong tố tụng dân sự Việt Nam
1. Lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự
Tố tụng dân sự được hiểu là tổng thể các quy trình, thủ tục, công đoạn có mối quan hệ chặt chẽ, liên tiếp với nhau để thông qua đó các chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật, đưa ra các biện pháp cần thiết để giải quyết các tranh chấp dân sự một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật và đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự.
Tố tụng dân sự và dân sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như dân sự được hiểu là các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản, thì tố tụng dân sự cũng xuất phát từ mối quan hệ nhân thân và tài sản song chỉ phát sinh khi có tranh chấp xảy ra và có nhu cầu giải quyết các tranh chấp đó. Các chủ thể tham gia trong mối quan hệ pháp luật dân sự và tố tụng dân sự đều giống nhau bởi luôn hướng đến các quyền dân sự, kinh tế mà chính đối tượng của quan hệ dân sự (tài sản và nhân thân) mang lại. Tuy nhiên, còn một bộ phận chủ thể khác, tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự lại không xuất phát từ các lợi ích đó, mà nhóm chủ thể này tiến hành các thủ tục tố tụng vì lợi ích của hai bên đương sự (nguyên đơn và bị đơn). Do đó, so với quan hệ dân sự thì mối quan hệ tố tụng dân sự mang tính chất đa dạng về chủ thể, đa dạng về quyền lợi và cứng nhắc về quy trình, thủ tục. Bởi lẽ, trong tố tụng dân sự, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được đưa ra bàn bạc, xem xét và giải quyết công khai, theo pháp luật. Vì thế, nếu quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính tùy tiện, thiếu khách quan và công minh thì quyền con người trong tố tụng dân sự sẽ bị xâm hại. Theo đó, cách thức và cơ chế nhà nước thiết lập nên để giải quyết tranh chấp về dân sự cho công dân sẽ không trở thành công cụ để bảo vệ quyền con người. Hậu quả là bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa không được thể hiện qua các chức năng giải quyết tranh chấp dân sự.
Với mục đích đó, việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự đòi hỏi phải được tiếp cận trong tổng thể quyền dân sự của con người, gắn với toàn bộ quá trình tố tụng dân sự: Từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí, thụ lý đến giai đoạn xét xử, ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án dân sự. Chính vì gắn với quyền dân sự, nên các tranh chấp dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là các tranh chấp vụ việc dân sự, mà còn là các tranh chấp trong quan hệ thương mại, hôn nhân gia đình, lao động v.v… Do đó, giải quyết tranh chấp dân sự trong tố tụng dân sự gồm cả giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại, lao động và hôn nhân gia đình. Đây là cách tiếp cận từ quyền dân sự, kinh tế trong Công ước quốc tế về quyền con người. Tố tụng dân sự trong bài viết này cũng giới hạn việc giải quyết tranh chấp thông qua con đường Tòa án, tuy nhiên, có tính đến việc so sánh cơ chế bảo vệ quyền con người thông qua quá trình giải quyết tranh chấp thương mại thông qua con đường Trọng tài để tìm ra các ưu thế của cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Về lý luận, quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, các quyền đó được thừa nhận với những giá trị mang tính phổ quát nhất.
Trước hết, cơ sở lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc tế
Quyền con người trong tố tụng dân sự được Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế về quyền con người và một số Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ghi nhận. Đây là những nguyên tắc chung nhất để từ đó, con người có cơ sở tự bảo vệ và yêu cầu các nhà nước thành viên bảo vệ họ. Trong tố tụng dân sự, luật pháp quốc tế thừa nhận sự tham gia của ba nhóm người, tương ứng với ba nhóm quyền con người trong tố tụng dân sự: Nhóm quyền của các bên tranh chấp (quyền của nguyên đơn, bị đơn); nhóm quyền của người tiến hành tố tụng (điển hình là Tòa án).
Thứ hai, lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc gia
Hệ thống pháp luật quốc gia có vai trò tạo cơ sở pháp lý cho con người được hành động trong khuôn khổ pháp lý khi tham gia các quan hệ pháp luật. Đối với tố tụng dân sự, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự luôn xác định Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự là những nguồn cơ bản, hữu hiệu không chỉ điều chỉnh hành vi mà còn là những đảm bảo pháp lý về quyền con người trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Hệ thống pháp luật tố tụng dân sự xác định các nội dung cơ bản như:
– Nguyên tắc cơ bản trong quy trình tố tụng dân sự.
– Các quyền cơ bản của đương sự.
– Thẩm quyền và điều kiện đảm bảo việc thực hiện các quyền của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của đương sự và những người có liên quan trong tố tụng dân sự.
– Các quyền cơ bản của người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, phiên dịch v.v…
2. Thực tiễn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay
a. Ưu điểm
Quyền con người trong tố tụng dân sự đã và đang được cụ thể hóa trong văn bản quy phạm pháp luật mà điển hình là Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự được ban hành và đến năm 2011, Bộ luật Tố tụng dân sự lại được tiến hành sửa đổi, bổ sung để làm hoàn thiện và sâu sắc hơn cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự. Cụ thể như sau:
Một là, thay đổi quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Để đảm bảo quyền và lợi ích của chủ thể có tài sản, Bộ luật Tố tụng dân sự đã khắc phục bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về thời hiệu khởi kiện. Theo đó, Bộ luật Dân sự đã được sửa đổi về trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Các tranh chấp không thuộc các trường hợp nêu trên thì thời hiệu khỏi kiện vụ án dân sự là vẫn là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm như quy định trước đây.
Hai là, thẩm quyền của Tòa án
Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự lần này đã mở rộng thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong các vụ án về dân sự như: Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Đối với các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được bổ sung 02 loại là: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Việc bổ sung hai loại tranh chấp này đảm bảo cho quyền về tài sản của người được thi hành án trong các tranh chấp dân sự.
Ba là, các quyền mới của các đương sự trong vụ án dân sự
Ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã bổ sung thêm một số quyền cho các đương sự. Nếu như quy định trước đây chỉ cho phép đương sự đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 đã ghi nhận cho đương sự có quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc có quyền đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung lần này cũng đã quy định chi tiết về trình tự, thủ tục đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm; thêm thủ tục mới là “Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”…
Trong thực tiễn tiến hành tố tụng dân sự, các cá nhân tiến hành tố tụng đã có ý thức đảm bảo các quyền con người của đương sự (nguyên đơn, bị đơn), quyền của luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn, bị đơn. Chính từ việc đảm bảo các quyền con người trong tố tụng và sự thận trọng trong nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng đã làm cho các trường hợp xử sai trong tố tụng dân sự giảm đi đáng kể.
b. Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã ngày càng hoàn thiện, song để đảm bảo các quyền con người trong tố tụng dân sự trong thực tế thì cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và trong thực thi pháp luật tố tụng dân sự vẫn còn có những tồn tại như sau:
Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 chưa có hệ thống nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự đầy đủ và hoàn thiện
Về nguyên tắc tranh tụng, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung sau 7 năm có hiệu lực nhằm ghi nhận các giá trị của quyền con người, song trên thực tiễn vẫn chưa ghi nhận các nguyên tắc cốt lõi mang tính chất tuyên ngôn nhằm đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự. Đó là nguyên tắc tranh tụng. Trong tố tụng dân sự, chúng ta bàn đến nguyên tắc xét xử dân chủ, công bằng, vô tư, khách quan. Bản chất và phương pháp để đạt đến sự dân chủ, công bằng, vô tư và khách quan chính là qua con đường tranh tụng. Trên thực tế, chúng ta thừa nhận yếu tố của các hành vi mang tên gọi là tranh luận và có nhiều người dễ dãi thì cho rằng tranh luận trong tố tụng gọi là tranh tụng. Vấn đề nguyên tắc tranh tụng không đơn giản chỉ dừng lại ở ý niệm khái quát về ngôn ngữ như vậy. Tranh tụng là một nguyên tắc để từ đó xác định chứng cứ, đánh giá chứng cứ, ra bản án thông qua quá trình tranh tụng minh bạch. Thông qua việc áp dụng nguyên tắc tranh tụng, thẩm phán xét xử theo pháp luật và bằng pháp luật, các đương sự bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình trên cơ sở các chứng cứ được đánh giá khách quan, rõ ràng.
Về nguyên tắc độc lập của tòa án, muốn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự thì nguyên tắc độc lập của tòa án cần thiết phải được đặt ra. Song thực tế tố tụng dân sự ở Việt Nam, thì nguyên tắc độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật vẫn đang tồn tại một cách lệ thuộc vào mối quan hệ giữa các cơ quan, chủ thể tiến hành tố tụng dân sự. Hơn thế nữa, yếu tố tố tụng thẩm vấn hiện nay đang tạo ra cơ chế cho phép thẩm phán phải tham gia vào nhiều công đoạn tế nhị của tố tụng dân sự. Do đó, các thẩm phán chưa thể đáp ứng yêu cầu cơ bản của nguyên tắc độc lập của tòa án như: “Độc lập trong quá trình thực hiện chức năng của mình” hoặc “không được tham gia bất cứ hoạt động nào có khả năng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng xét xử họ”. Như vậy, thực tế nguyên tắc độc lập của tòa án chưa được công nhận là một nguyên tắc của tố tụng dân sự, nên vô hình chung tạo ra một nguyên nhân khách quan cho thẩm phán khi tiến hành tố tụng thiếu đi mất sự độc lập cần phải có.
Về sự tham gia của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng dân sự, thực tiễn cho thấy, muốn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự một cách có hiệu quả, thì việc xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng là một vấn đề đáng cân nhắc ở Việt Nam hiện nay. Về lý luận, muốn các bên đương sự bình đẳng với nhau và thụ hưởng quyền bình đẳng, thì cần phải đánh giá lại vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự đảm bảo được tính pháp chế thì có đảm bảo được tính tự nguyện và bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tố tụng dân sự hay không? Rõ ràng là đang có sự mâu thuẫn trong nhận thức về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Vậy về mặt thực tiễn, Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự ở phiên sơ thẩm (ở các vụ án nhất định), tiến hành kháng nghị là phù hợp, song về mặt lý luận và xuất phát từ các nguyên lý cơ bản của ngành luật tố tụng dân sự, thì sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đang phá vỡ mối quan hệ bình đẳng giữa các đương sự và với tòa án. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến thực tế vai trò của Viện kiểm sát đối với sự minh bạch của nền tư pháp để có được kết luận cuối cùng về vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
Thứ hai, các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự đang đứng trước thực tế khó áp dụng, không mang tính khả thi
Về quy định liên quan đến nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ, Bộ luật Tố tụng dân sự được soạn thảo theo nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự. Chứng minh trong tố tụng dân sự vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các bên đương sự. Căn cứ vào lợi ích của mình, các bên đương sự đưa ra trước tòa những chứng cứ có lợi cho họ và không có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ chống lại họ. Đây là nguyên nhân làm cho các vụ án bị kéo dài thời gian giải quyết. Liên quan đến vấn đề này, có quan điểm cho rằng, phải kéo dài thời gian đến bao giờ có chứng cứ thì thôi, vì Bộ luật Tố tụng dân sự chưa quy định về thời gian thu thập và xuất trình chứng cứ; có quan điểm cho rằng, cần phải quy định một thời gian nhất định cho việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho thẩm phán. Vì chưa có quy định cụ thể nên hiện nay, các vụ tranh chấp dân sự bị kéo dài thời gian do nghĩa vụ thu thập chứng cứ chưa được quy định cụ thể và trách nhiệm bắt buộc Tòa án phải mở phiên tòa cũng đang ở dạng tùy nghi, nên quyền lợi của các bên đương sự đang bị ảnh hưởng rất nhiều, thậm chí nghiêm trọng.
Về quy định liên quan đến quyền chứng minh, trong tố tụng dân sự, quyền chứng minh của đương sự có thể phái sinh cho người có bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, việc xác định tư cách của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hiện nay đang trao cho Tòa án. Do đó, quyền tự do lựa chọn người bảo vệ cho các bên đương sự đang đứng giữa mâu thuẫn là Tòa án cho phép thì được bảo vệ và tiêu chí cụ thể nào để tòa án không cho phép thì chưa được quy định và liệt kê một cách đầy đủ, dẫn đến sự tùy tiện của Tòa án trong việc cho phép hoặc không cho phép họ được đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. ý chí tự nguyện của đương sự trong tố tụng dân sự khi lựa chọn luật sư, người bảo vệ quyền lợi trong tố tụng dân sự chưa đảm bảo.
Về trình tự, thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay chưa thể hiện được là một quy trình tố tụng đảm bảo tối đa sự tuân thủ các nguyên tắc tố tụng dân sự và đảm bảo quyền con người. Bởi lẽ, chưa có sự phân biệt và cụ thể của nguyên tắc hai cấp xét xử, chưa có sự phân biệt giữa thủ tục của tố tụng dân sự với tố tụng hình sự ở diễn biến, trình tự và giai đoạn của mỗi phiên tòa. Giai đoạn chứng minh, tranh luận trong tố tụng dân sự chưa có gì khác với chứng minh, tranh luận trong tố tụng hình sự mặc dù bản chất, hình thức và nội dung, cách thức đòi hỏi tố tụng dân sự và tố tụng hình sự phải không giống nhau mới thể hiện được rõ nét quyền con người trong tố tụng dân sự và quyền con người trong tố tụng hình sự cần phải diễn ra như thế nào mới phù hợp.
Thẩm tra trong tố tụng dân sự và giám sát của nhân dân, giám sát của Quốc hội chưa thể hiện trong tố tụng dân sự, mặc dù đây là ba cơ chế đảm bảo quyền con người một cách rõ nét. Đặc biệt, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 đã thừa nhận cơ chế xem lại bản án như “Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” càng đòi hỏi mối quan hệ giữa đương sự với các cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng dân sự phải được quy định cụ thể.
Như vậy, vấn đề đặt ra cần phải có giải pháp cụ thể không chỉ để cho các cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng trong việc giải quyết đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, đúng pháp luật mà vấn đề cần phải đảm bảo tối đa quyền con người trong tố tụng dân sự. Để sự đảm bảo vững chắc nhất, theo chúng tôi, cần có sự đổi mới về nhận thức bắt nguồn từ các giá trị mà pháp luật quốc tế mang lại. Cụ thể:
+ Đảm bảo quyền độc lập cho tư pháp. Thẩm phán phải được tuyển chọn, bổ nhiệm đúng chất lượng, trình độ và quy chuẩn đạo đức. Quá trình thanh lọc các thẩm phán không đủ tiêu chuẩn, trình độ và đạo đức cần phải tiến hành từ phía kiến nghị của người dân.
+ Đảm bảo tranh tụng được xem là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự song có sự phân biệt cụ thể và rõ ràng giữa sự khác nhau của tranh tụng trong tố tụng hình sự với tranh tụng trong tố tụng dân sự từ thu thập chứng cứ, chứng minh lẫn phán quyết.
+ Đảm bảo địa vị bình đẳng của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự, đặc biệt là cơ chế để luật sư, người bào chữa tham gia các quá trình tố tụng dân sự theo nhu cầu của nguyên đơn, bị đơn.
Tố tụng dân sự cần phải được hiểu là quá trình nhà nước, các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền đứng ra giải quyết tranh chấp giúp hai bên đương sự theo thủ tục tư pháp dân chủ. Do đó, nguyên tắc dân chủ, công khai, khách quan phải là nguyên tắc được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời cũng là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Cần phải có thống kê, tổng kết, xác định số lượng các án dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình để thành lập các tòa chuyên trách và đội ngũ thẩm phán phù hợp với chuyên môn hơn. Ví dụ như thành lập Tòa án hôn nhân gia đình, Tòa án bảo vệ người tiêu dùng, Tòa án đất đai v.v… Bởi mỗi loại tranh chấp cần phải có thủ tục tố tụng dân sự riêng và thời gian thụ lý, xét xử cũng phải tính đến tính đặc thù của từng vụ án
TS. Trương Thị Hồng Hà
Tham khảo thêm:
- Bình đẳng giới thông qua Công ước Cedaw 1979 và Luật Bình đẳng giới ở Việt Nam
- Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự
- Một vài suy nghĩ về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
- Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật
- Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành
- Thi hành án hành chính – Những chuyển biến tích cực và giải pháp hoàn thiện
- Kết quả thực hiện Đề án thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi tại Nghệ An – Vướng mắc và giải pháp
- Vướng mắc về thời hạn xử lý tang vật vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính
- Công tác bán đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An – Thực trạng và giải pháp
- Bàn về tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng