Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam

Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam

30/10/2015

Điều 102 khoản 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vậy quyền tư pháp ở Việt Nam là gì, cơ quan thực hiện quyền tư pháp, ngoài Tòa án như Hiến pháp đã quy định, còn có cơ quan nào khác? Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp trong những văn bản pháp luật liên quan và để thực thi trong cuộc sống. Bài viết đưa ra một quan điểm nghiên cứu về vấn đề này.

1. Khái niệm “Tư pháp” được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, theo nghĩa rộng nhất, tư pháp là sự công bằng, công lý và các thiết chế nhằm duy trì,bảo đảm sự công bằng, bảo vệ nền công lý. Trong tiếng Anh, tư pháp là “Justice” nghĩa là công lý, là một trong ba nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội, xuất phát từ lý thuyết về sự phân chia quyền lực, được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa, nhưng chỉ đến thời kỳ La Mã cổ đại, mới thực sự hiện hữu trong đời sống xã hội. Theo John Locke (1632-1704), một nhà triết học người Anh, thì quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền của mình cho Nhà nước qua khế ước, theo đó, để chống lại độc tài, phải thực hiện sự phân quyền thành 3 lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp và liên hợp. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong Nhà nước và phải thuộc về Nghị viện. Nghị viện họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vụ, Chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của Nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và không có đặc quyền nhất định nào với Nghị viện nhằm không cho phép Vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên hợp là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.

Những luận điểm phân quyền của J.Locke đã được nhà khai sáng, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu, phát triển một cách toàn diện và độc lập thành học thuyết tam quyền phân lập. Tiếp thu và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế, Montesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị bảo đảm tự do cho người dân. Theo đó, quyền hành pháp và quyền liên hợp trong luận điểm của J.Locke tiếp tục được phân chia rõ hơn nữa, tách hẳn quyền thi hành pháp luật ra khỏi quyền xét xử. Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Montesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ông cho rằng: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: Quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”. Sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của J.Locke là đã tách quyền lực xét xử – quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác và các quyền lực đều cân bằng nhau, không quyền nào cao hơn quyền nào. Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”.

Nội dung cơ bản của thuyết tam quyền phân lập là sự phân chia ba nhánh quyền lực, trong đó lập pháp là biểu hiện ý chí chung của quốc gia, thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội. Hành pháp là việc thực hiện luật pháp được thiết lập. Tư pháp là để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và khi xử án chỉ tuân theo pháp luật. Ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp), do ba cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước. Điển hình như ở Mỹ, Nghị viện nắm quyền lập pháp, Chính phủ, Tổng thống nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan quyền lực công có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác. Quyền lực giữa các cơ quan này cân bằng nhau, không có loại quyền lực nào vượt trội, lớn hơn quyền lực nào. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không một cơ quan nào có khả năng lạm quyền.

Từ nguồn gốc hình thành trong học thuyết tam quyền thì quyền tư pháp là quyền xét xử, được thực hiện thông qua cơ quan có chức năng xét xử là Tòa án. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ việc. Thực hiện quyền tư pháp là việc pháp luật được áp dụng, được tôn trọng và được thực thi. Thực hiện quyền tư pháp là một trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và được tôn trọng trong thực tế. Quyền tư pháp gắn với Tòa án và chỉ Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền tư pháp, vì vậy, Tòa án còn được gọi là cơ quan tư pháp và chỉ Tòa án mới là cơ quan tư pháp. Đó là quan niệm về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới, từ thời điểm hình thành học thuyết ba quyền lực cho đến hiện nay.

2. Ở Việt Nam, quyền tư pháp được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa, đó là “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính…”[1] hoặc một định nghĩa khác “Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”[2]. Như vậy, quan niệm về quyền tư pháp của nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam và quan niệm về quyền tư pháp trong học thuyết của Montessquieu và đang hiện hữu ở nhiều quốc gia trên thế giới, về cơ bản, có nhiều điểm tương đồng, theo đó quyền tư pháp là quyền xét xử và dựa trên quan điểm này thì cơ quan tư pháp được xác định là Tòa án.

3. Trên thực tế, quyền tư pháp ở Việt Nam có nghĩa rộng hơn nhiều, xuất phát từ đặc điểm tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân[3]. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 6 Hiến pháp năm 1992); trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất[4]. Suốtthời kỳ xây dựng và phát triển đất nước từ năm 1945, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Như vậy, ở Việt Nam không có sự phân chia quyền lực, vì vậy quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam có nhiều điểm đặc thù so với nhiều quốc gia trên thế giới.

Chưa có một văn bản pháp luật của Việt Nam chính thức xác định khái niệm tư pháp có nội hàm gì, cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào, nhưng điều này đã được thể hiện qua chủ trương của Đảng nêu trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08-NQ/TW) lần đầu tiên tiếp cận khái niệm tư pháp và cơ quan tư pháp dưới góc độ đường lối chính sách của Đảng về công tác tư pháp. Theo đó, nội dung của công tác tư pháp và cơ quan tư pháp có phạm vi rất rộng, từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án[6].

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49-NQ/TW) tiếp tục chỉ ra hệ thống các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hiện quyền xét xử; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng hình sự và các cơ quan thi hành án[7].

Ngoài những cơ quan tư pháp kể trên, Nghị quyết 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, tổ chức giám định, hoạt động công chứng, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp; Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp này[8] như một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp là một khâu quan trọng trong công tác cải cách tư pháp.

Như vậy, theo các nghị quyết của Bộ Chính trị, các cơ quan tư pháp của Việt Nam gồm cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án. Theo đó công tác tư pháp hay hoạt động tư pháp gồm hoạt động điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án. Nếu ở nhiềunước, “Tư pháp” là xét xử và cơ quan tư pháp là Tòa án, thì ở Việt Nam, “Tư pháp” được hiểu theo nghĩa rộng, là sự trộn lẫn toàn bộ hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Ngoài ra, còn có các hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, đấu giá, giám định tư pháp. Bên cạnh đó, ở Việt Nam, trong nhận thức của nhiều người dân và cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan tư pháp còn bao gồm các cơ quan trong Ngành Tư pháp từ trung ương đến địa phương (Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp và các phòng tư pháp cấp huyện).

Sự khác biệt giữa nhận thức, quan niệm về tư pháp của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, xuất phát từ sự khác nhau giữa cách thức tổ chức và quản lý xã hội. Nhiều nước trên thế giới tổ chức bộ máy quyền lực để quản lý xã hội theo học thuyết tam quyền phân lập, trong đó có sự phân chia quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; các quyền này độc lập, cân bằng, có đối trọng và chế ước lẫn nhau nhằm tránh sự lạm quyền, sự độc quyền và độc tài; bảo đảm sự dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân được thực thi theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Việt Nam không theo học thuyết này mà tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung trong tay nhân dân; nhân dân trao cho người đại diện là các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực ấy là quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì không có sự phân chia quyền lực, nên từ góc độ này thì ở Việt Nam không có quyền tư pháp theo nghĩa mà nhiều nước trên thế giới hiện nay đang quan niệm.

4. Hiến pháp năm 2013 đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam. Điều 102 khoản 2 của Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với thời kỳ trước Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp đã được định hình và thu hẹp phạm vi, dẫn đến những đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam.

Trên thực tế đang có những cách hiểu khác nhau về quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết như: Quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 có nội hàm thế nào? Quyền xét xử được giới hạn đến đâu và có mối liên hệ thế nào với quyền điều tra, quyền truy tố, quyền thi hành án? Những cơ quan được xác định là cơ quan tư pháp (theo chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện qua các nghị quyết của Bộ Chính trị) nay có còn là cơ quan tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 hay không? Hiện đang có các ý kiến, quan điểm khác nhau, trong đó bao gồm cả cách hiểu điều luật quy định về những vấn đề này. Có ý kiến cho rằng, Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhưng điều đó không khẳng định chỉ có Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp hoặc quyền tư pháp ở Việt Nam có nghĩa rất rộng, không phải chỉ là quyền xét xử mà còn những quyền khác như quyền điều tra, quyền truy tố, quyền thi hành án như đã được nêu trong các nghị quyết của Đảng hoặc nếu chỉ có Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp thì những cơ quan được xác định là cơ quan tư pháp trong các nghị quyết của Đảng và trong nhận thức của cơ quan nhà nước, người dân, nay sẽ là những cơ quan gì, có vai trò thế nào trong bộ máy nhà nước… Những ý kiến, quan điểm này không chỉ trên diễn đàn của các nhà nghiên cứu mà còn nóng trên hội trường Quốc hội, chiếm nhiều thời gian khi các đại biểu thảo luận các luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi)…

Những ý kiến, quan điểm này phản ánh quá trình phát triển trong tư duy lập pháp của Việt Nam và là sự phát triển bình thường của quá trình nhận thức. Với đặc điểm tổ chức các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất thì việc phân định một cách rõ ràng cơ quan tư pháp với các cơ quan khác liên quan đến hoạt động tư pháp, dù chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đã được quy định trong Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật khác, cần thời gian để đạt được sự thống nhất trong nhận thức, trong hoạt động của các cơ quan liên quan đến tư pháp, phù hợp với tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013, tiếp cận được với quan niệm về quyền tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc hiểu đúng về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp trong bối cảnh Hiến pháp mới đã được ban hành không phải chỉ là những vấn đề lý luận mà có tác động trực tiếp tới định hướng cải cách tư pháp và việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.

TS. Lê Thu Hà

Văn phòng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương



[1]Viện khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, 2006, tr.657

[2]Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, 2004, tr.11

[3]Điều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Điều 4 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân”.

Điều 6 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.

Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.

Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

[4]Điều 22 Hiến pháp năm 1946 quy định: Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Điều 43 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Điều 6 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Điều 83 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nươc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

[5] Điều 2 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2002; khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

[6]Quan điểm chỉ đạo được nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW là Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống vi phạm, tội phạm và giải quyết tranh chấp. Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại hóa, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước”.

Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, có nhiệm vụ nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp, gồm :

– Nâng cao cao chất lượng công tác điều tra, đấu tranh, phòng chống tội phạm, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và tăng cường phối hợp giữa cơ quan trách điều tra với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để kịp thời điều tra, xử lý tội phạm có hiệu quả. Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can trong một số loại tội.

– Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và duy trì trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam giữ, bảo đảm đúng pháp luật. Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ và chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình.

– Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.

– Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: Tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án; tranh luận dân chủ công khai tại phiên tòa…

– Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Xây dựng đề án thay đổi việc tổ chức thi hành hình phạt tử hình và nghiên cứu hạn chế án tử hình trong bộ luật hình sự.

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định.

[7] Một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

[8] Một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, cụ thể:

– Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình.

– Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc.

– Xây dựng lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp thời cho hoạt động xét xử, thi hành án…

– Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này.

– Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo.

Tham khảo thêm:

1900.0191