Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra – Chương 3.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT – NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
3.1 Thực trạng thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra
3.1.1 Những kết quả đạt được trong việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra
Trong những năm qua, kể từ khi triển khai Luật tổ chức VKS 2002, BLTTHS 2003 và Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các VAHS (Ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ – VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSNDTC) khiến cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra có nhiều chuyển biến. Trong giai đoạn này, VKS đã có những biện pháp kịp thời để nắm chắc việc phân loại vi phạm và tội phạm của CQĐT, từ đó có biện pháp hạn chế tình hình khởi tố oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Bảng 3.1 : Một số kết quả thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự trong thời gian gần đây ( từ năm 2007 đến năm 2011)
Năm | Số vụ án VKS yêu cầu CQĐT khởi tố | Số vụ án CQĐT đã khởi tố theo yêu cầu của VKS | Số vụ án VKS trực tiếp khởi tố |
2008 | 206 | 164 | 23 |
2009 | 190 | 157 | 28 |
2010 | 210 | _ | 121 |
2011 | 314 | _ | 36 |
2012 | 442 | _ | _ |
([25],[26],[27],[28],[29])
Bảng 3.2 Một số kết quả thực hành quyền công tố trong việc khởi tố bị can (giai đoạn 2008 – 2012)
Năm | Số bị can VKS yêu cầu CQĐT khởi tố | Số bị can CQĐT đã khởi tố theo yêu cầu của VKS | Số bị can VKS trực tiếp khởi tố |
2008 | 388 | 288 | 14 |
2009 | 209 | 187 | 19 |
2010 | 186 | _ | 125 |
2011 | 312 | 214 | 22 |
2012 | 522 | 459 | _ |
([25],[26],[27],[28],[29])
Trong 5 năm (từ 2008 đến 2012), các VKS đã yêu cầu CQĐT khởi tố tổng số là 1548 bị can. Số lượng bị can mà VKS yêu cầu CQĐT khởi tố có xu hướng giảm dần qua các năm. Về tổng số bị can VKS trực tiếp khởi tố trong 5 năm gần đây (từ 2008 đến 2012) là 220 bị can. Nếu như ở năm 2008, số bị can VKS trực tiếp khởi tố là 40 bị can thì những năm sau, tình hình có có xu hướng tăng giảm không đều. Cụ thể năm 2009 giảm xuống 14 bị can; sau đó tăng lên 19 bị can vào năm 2010. Đặc biệt có sự tăng đột biến vào năm 2011 với 125 bị can. Tuy nhiên vào năm 2012, con số đó lại giảm đột ngột với 22 bị can được VKS trực tiếp khởi tố.
VKS các cấp thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra VAHS, tăng cường phối hợp thực hiện tốt thông tư liên tịch 01/TTLS-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/08/2010 hướng dẫn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Năm 2011, VKS trả cho CQĐT 1.262 hồ sơ, CQĐT chấp nhận 1.257 hồ sơ.[28]
Đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở giai đoạn điều tra trong thời gian qua cũng đạt nhiều thành tích đáng kể. Nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo VKS nhân dân các cấp, cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và sự nỗ lực của cán bộ, KSV trong ngành Kiểm sát, những năm gần đây, công tác thực hành quyền công tố đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nên trong quá trình điều tra, xử lý vụ án đã có sự đánh giá, phân loại về tính chất mức độ phạm tội, nhân thân của các bị can để quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cho phù hợp. Hầu hết các bị can bị bắt, tạm giam đều là bị can có hành vi phạm tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Các KSV được phân kiểm sát điều tra các VAHS đều chú ý nghiên cứu kỹ hồ sơ, làm rõ các căn cứ đề bắt, tạm giam; cương quyết không phê chuẩn những trường hợp không đủ căn cứ. Do vậy, tỷ lệ người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, sau đó xử lý hành chính, Toà án tuyên không phạm tội giảm đáng kể.
Bảng 3.3 Một số kết quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc phê chuẩn quyết định của CQĐT(Giai đoạn 2008-2012)
Năm | Số bị can VKS quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam | Số bị can VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam | Số trường hợp VKS không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp |
2008 | 334 | 298 | 151 |
2009 | 190 | 178 | 96 |
2010 | 225 | 122 | 106 |
2011 | 226 | 179 | 96 |
2012 | 220 | 182 | 120 |
([25],[26],[27],[28],[29])
Ngoài nghiên cứu căn cứ để phê chuẩn lệnh bắt, tạm giam của CQĐT, VKS các cấp thấy có những bị can phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, có ý định trốn hoặc gây khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra nhưng CQĐT không áp dụng biện pháp tạm giam, VKS đã yêu cầu CQĐT bắt, tạm giam những đối tượng nàỵ. Trong 5 năm, VKS các cấp đã yêu cầu CQĐT bắt tạm giam 398 trường hợp (Năm 2008 có 130 trường hợp; năm 2009 có 120 trường hợp; năm 2010 có 61 trường hợp; năm 2011 có 79 trường hợp và năm 2012 có 48 trường hợp). Số người bị bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự đạt tỷ lệ cao (khoảng từ 96 % đến 98%). Tình trạng bắt, tạm giữ hình sự, sau đó trả tự do hoặc chuyển xử lý hành chính đã giảm thiểu đáng kể, khắc phục việc lạm dụng bắt khẩn cấp, hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự; hạn chế đáng kể việc bắt oan, sai.[1]
– VKS các cấp đã cùng với CQĐT xác định nhiều vụ án trọng điểm để phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân. Các vụ án trọng điểm đều được các cấp kiểm sát tiến hành kiểm sát điều tra từ đầu nên việc điều tra những vụ án loại này vừa đảm bảo chất lượng, vừa bảo đảm thời hạn và thủ tục theo quy định của BLTTHS. Thông qua công tác kiểm sát điều tra, VKS chú trọng phát hiện và tập hợp vi phạm pháp luật của CQĐT để đề nghị yêu cầu khắc phục. Hầu hết các kiến nghị, yêu cầu đều được CQĐT tiếp thu, sửa chữa. Những năm gần đây, VKS có nhiều kiến nghị đối với Bộ công an về các vi phạm trong hoạt động điều tra để yêu cầu chấn chỉnh. Công tác phòng ngừa tội phạm cũng được VKS chú trọng hơn và coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác kiểm sát điều tra.
3.1.2 Những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra
- Hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các VAHS còn chưa cao, còn bỏ lọt tội phạm. Vẫn còn xảy ra một số trường hợp oan sai làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó tỷ lệ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra đối với bị can do không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hằng năm vẫn còn ở mức cao (năm 2008 là 176 bị can, năm 2009 là 108 bị can). Điều đó thể hiện công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra VAHS còn chưa đạt hiệu quả cao, chưa bám sát chặt chẽ quá trình điều tra vụ án. Hạn chế này xuất phát một phần từ hạn chế trong việc đánh giá, thu thập chứng cứ và chứng minh tội phạm ở giai đoạn điều tra còn chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ nhiều lần, thời gian giải quyết vụ án kéo dài, nhất là các vụ án tham nhũng, trong đó có trách nhiệm của VKS.
- Hạn chế trong việc đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra. Theo quy định tại Điều 114 BLTTHS thì yêu cầu điều tra của VKS thuộc loại yêu cầu mà CQĐT phải thực hiện nhưng không bắt buộc phải thực hiện vì nếu không nhất trí, CQĐT vẫn phải chấp hành nhưng có quyền khiếu nại lên VKS cấp trên trực tiếp.Trong trường hợp, tuy VKS đề ra yêu cầu điều tra có căn cứ, hợp lí nhưng do những lý do khác nhau mà CQĐT có quan điểm không đồng nhất. Mặc dù vẫn phải thực hiện theo những yêu cầu điều tra của VKS nhưng việc thực hiện này miễn cưỡng, đối phó. Lúc này, VKS cũng không có biện pháp nào khác ngoài việc tiếp tục yêu cầu CQĐT phải thực hiện. Còn trong trường hợp những yêu cầu điều tra mà VKS đưa ra không hợp lý thì CQĐT vẫn phải thực hiện trong khi chờ ý kiến của VKS cấp trên. Từ đó gây chậm trễ cho quá trình điều tra cũng như lãng phí thời gian tiền bạc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này cho thấy, các quy định của pháp luật TTHS về quyền yêu cầu điều tra của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS là rất lớn nhưng chưa có cơ chế thực thi hiệu quả trên thực tế.
- Việc quản lý và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm còn nhiều hạn chế. Hiện nay không có những cơ chế pháp lý cần thiết để VKS nắm bắt và quản lý đầy đủ các thông tin về tội phạm được CQĐT thụ lý. Trước đây đã có Thông tư liên ngành số 03 ngày 25/5/1992 về xử lý tin báo về tội phạm nhưng từ khi có BLTTHS 2003 ra đời, thông tư này không còn được áp dụng trong thực tiễn. Trên thực tế, VKS chỉ nắm được những tin tố giác, tin báo về tội phạm mà CQĐT đánh giá là có khả năng điều tra, khám phá được vụ án. Còn những tin báo về tội phạm ẩn mà chưa xác định được đối tượng thì CQĐT không báo cho VKS biết. Hơn nữa ngoài CQĐT, còn có các cơ quan khác nắm các tin báo về tội phạm. Do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà nhiều vụ có dấu hiệu tội phạm nhưng không được khởi tố. Trong khi VKS không được mời tham gia cùng các cơ quan nói trên trong việc phân loại tin báo nên một số lượng không nhỏ tin tố giác về tội phạm nằm ngoài sự kiểm soát của VKS.
- Vẫn còn tình trạng bức cung, dùng nhục hình để buộc người bị bắt, tạm giữ, bị can bị tạm giam khai nhận hành vi phạm tội nhằm hợp thức hóa những vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng trước đó như việc bắt, tạm giữ, quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam bị can (năm 2009, Cục điều tra VKSNDTC xác minh tố giác, tin báo về tội phạm đã xác định được 8 hành vi bức cung, dùng nhục hình của ĐTV).[16,tr.31]
- Trong hoạt động nghiệp vụ, một tồn tại đáng chú ý là tỷ lệ số vụ án được kiểm sát điều tra từ đầu còn thấp. Theo quy định của pháp luật thì VKS có quyền kiểm sát vụ án từ giai đoạn khởi tố VAHS và kiểm sát thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện quyền hạn trách nhiệm này còn chưa tốt. Do không kiểm sát điều tra ngay từ đầu nên công tác kiểm sát điều tra trở nên thụ động, phụ thuộc vào kết quả điều tra của CQĐT. Có ý kiến cho rằng, hiện nay tối đa chỉ có khoản 40% các vụ việc được VKS kiểm sát điều tra từ đầu [19,tr.36]. VKS không kịp thời phát hiện ra các vi phạm trong quá trình điều tra dẫn đến trường hợp bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Trong quan hệ với CQĐT, nhiều KSV vẫn còn tâm lý ngại va chạm, xuôi chiều nên không kịp thời phát hiện các vi phạm của CQĐT, hoặc tuyệt đối hóa quan hệ mà buông xuôi trách nhiệm, ỷ lại vào sự chỉ đạo của cấp trên. Do vậy công tác phát hiện và kiến nghị các vi phạm của CQĐT chưa được thực hiện thường xuyên ở cả ba cấp kiểm sát.
3.1.3 Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
Những hạn chế nêu trên đối với việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ nêu ra một số nguyên nhân chính tác động trực tiếp đến việc thực hiện chức năng của VKS ở giai đoạn điều tra. Đó là các nguyên nhân cụ thể sau:
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS còn chưa đầy đủ, rõ ràng, thiếu sự thống nhất và chưa được hướng dẫn kịp thời. Điều này xuất phát từ bản chất không phân biệt rạch ròi giữa hoạt động thực hành quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Đơn cử đối với hoạt động phê chuẩn quyết định của CQĐT, trong BLTTHS và các văn bản hướng dẫn đều đặt hoạt động này trong cả hai chức năng của VKS. Tuy nhiên rất khó để có sự phân biệt rõ ràng đối với hoạt động này. Bởi lẽ việc phê chuẩn một quyết định của CQĐT, vừa có ý nghĩa trong việc buộc tội (thực hành quyền công tố) nhưng nó cũng có giá trị với việc kiểm sát tính đúng đắn của những quyết định mà CQĐT áp dụng. Điều này đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể để có sự phân biệt chính xác giữa chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS.
- Điều 112 BLTTHS 2003 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, song lại đề cập đến cả những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS ở giai đoạn truy tố VAHS như quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Bên cạnh đó, có những nhiệm vụ quyền hạn nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn này lại không được quy định trong Điều 112 mà nằm rải rác trong những điều luật cụ thể khác như: quyết định chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền (Điều 116), gia hạn điều tra (Điều 119), gia hạn tạm giam bị can (Điều 120).
Khoản 3 Điều 112 có quy định : “Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự”. Quy định này gây mâu thuẫn với quy định tại Điều 104 BLTTHS vì có thể hiểu đây là trường hợp thứ ba VKS được khởi tố ngoài hai trường hợp đã được quy định tại Điều 104 BLTTHS. Hành vi của ĐTV có “dấu hiệu về tội phạm” có thể là những hành vi vi phạm pháp luật ở những mức độ khác nhau, có liên quan hoặc không liên quan đến việc giải quyết vụ án. Ví dụ như việc ĐTV thực hiện những hành vi sai lệch hồ sơ vụ án; bức cung, dùng nhục hình đối với bị can trong vụ án mà mình đang thụ lý điều tra và hành vi của ĐTV thỏa mãn dấu hiệu tội phạm (là các tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương 22 BLTTHS) thì theo quy định tại Điều 110 BLTTHS, việc khởi tố và điều tra vụ án thuộc thẩm quyền của CQĐT thuộc VKSNDTC với tư cách là CQĐT chuyên trách chứ không thuộc thẩm quyền của VKS các cấp nói chung. Trong trường hợp, ĐTV có các hành vi khác như cướp tài sản, trộm cắp… (ngoài các tội phạm xâm phạm các hoạt động tư pháp) thì thẩm quyền điều tra thuộc về CQĐT hoặc một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đối với trường hợp này, nếu VKS phát hiện thi cần phải áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 103 BLTTHS để chuyển giao ngay các tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và các tài liệu có liên quan cho CQĐT có thẩm quyền kiểm tra, xác minh giải quyết [21,tr.34]. Ngoài ra điều luật này cũng chưa có quy định cụ thể, trong trường hợp hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì sẽ khởi tố vụ án hay khởi tố bị can.
- Quy định của pháp luật hiện hành về việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vẫn còn bất cập. Ví dụ như:
- Đối với việc kiểm sát việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, pháp luật không quy định cho VKS các quyền năng pháp lý cụ thể và cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này. Tại Điều 144 BLTTHS và thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT – VKSTC – BCA – BQP ngày 07/09/2005 quy định trách nhiệm xử lý thông tin tội phạm thuộc về CQĐT. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì khởi tố VAHS (trừ trường hợp quy định tại Điều 107 BLTTHS). Trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định khởi tố VAHS, CQĐT phải gửi quyết định đó kèm theo các tài liệu có liên quan cho VKS cùng cấp. VKS có trách nhiệm kiểm sát việc xử lý thông tin và kiến nghị khởi tố. Theo đó VKS chỉ có nhiệm vụ chứ không có quyền hạn cụ thể trong việc xử lý tố giác, tin báo về tội phạm. Vì thế, trong thực tiễn nhiều VKS còn lúng túng trong việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ có tính pháp lý để kiểm sát hoạt động này. Ngoài ra, VKS không có trách nhiệm và cũng không có quyền đến các cơ quan khác để nắm tin báo về tội phạm hoặc yêu cầu họ cung cấp những thông tin trước khi vụ án được khởi tố [6,tr.39]. Khác với quy định của BLTTHS Việt Nam, BLTTHS của cộng hòa Pháp, Điều 19 có quy định: “Sỹ quan cảnh sát tư pháp phải thông báo ngay cho Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm những tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng và tội vi cảnh mà họ phát hiện được. Sau khi hoàn tất công việc, phải gửi ngay cho Viện trưởng Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm bản chính và bản sao có chứng thực tất cả các biên bản mà họ đã lập cũng như những văn bản và tài liệu liên quan. Nhưng đồ vật kê biên thuộc quyền xem xét của Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm”. Với quy định này, Viện công tố sẽ nắm bắt kịp thời và bám sát tình hình điều tra cũng như những chứng cứ, chứng minh về tội phạm.[5]
- Bên cạnh đó, một số quy định liên quan đến kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT vẫn còn gây khó khăn cho việc áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ như với việc kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Mặc dù Điều 150 BLTTHS quy định trong mọi trường hợp trước khi khám nghiệm hiện trường đều phải có sự có mặt của KSV. Tuy nhiên theo quyết định số 768/2006 QĐ- BCA ngày 20/06/2006 của Bộ công an thì với những vụ tai nạn giao thông không có người chết tại hiện trường thì lực lượng cảnh sát giao thông tổ chức ngay việc khám nghiệm hiện trường. Nhưng có nhiều trường hợp khi tai nạn xảy ra thì nạn nhân không chết tại hiện trường mà sau một thời gian mới chết hoặc nạn nhân bị tổn thương sức khỏe đến mức phải khởi tố VAHS thì việc điều tra gặp phải vướng mắc do hiện trường mà không được lập do ĐTV chủ trì và không có sự giám sát của KSV.[6,tr.40]
3.1.4 Các nguyên nhân khác
- Đội ngũ cán bộ, KSV chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trình độ năng lực chuyên e mmôn nghiệp vụ cũng như nhận thức pháp luật của một bộ phận cán bộ, KSV còn hạn chế. Do đặc trưng hoạt động của ngành nên nguồn bổ sung cán bộ thường xuyên thay đổi, dẫn đến đội ngũ cán bộ ngành kiểm sát nhân dân không có tính thống nhất về trình độ, bằng cấp chuyên môn, hình thức đào tạo. Chính vì thế khả năng cập nhật kiến thức, lý luận cơ bản, trình độ ngoại ngữ, tin học còn hạn chế. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ còn yếu kém. Việc nhận thức về các chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra còn chưa đúng đắn dẫn đến việc coi nhẹ công tác thực hành quyền công tố và quá đề cao hoạt động kiểm sát dẫn đến việc chủ yếu tập trung vào việc phát hiện, kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm mà chưa tập trung vào việc phát hiện, làm rõ tội phạm. Hay quá đề cao hoạt động công tố mà coi nhẹ hoạt động kiểm sát tiệc tuân theo pháp luật trong giai đoạn này dẫn đến tình trạng bỏ qua, không chú ý phát hiện và áp dụng các biện pháp theo quy định của BLTTHS để khắc phục vi phạm của CQĐT trong khi chính trong quá trình phát hiện, khắc phục những vi phạm đó, VKS lại thu thập được những chứng cứ có giá trị nhằm hỗ trợ cho CQĐT. Ngoài ra còn phải nhắc đến sự tác động nhiều mặt của nền kinh tế thị trường khiến cho một bộ phận cán bộ, KSV bị suy thoái về phẩm chất đạo đức dẫn đến vi phạm quy chế nghiệp vụ, quy chế kỷ luật, nhiều trường hợp phạm tội đã bị đưa ra truy cứu trước pháp luật.
- Hạn chế về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của VKS các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tình trạng thiếu cán bộ chưa được khắc phục.
3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chức năng công tố và kiểm sát của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định của luật Tố tụng hình sự
* Thứ nhất: Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 112 BLTTHS theo hướng quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra VAHS. Cụ thể như sau:
- Kiến nghị sửa Khoản 4 Điều 112 như sau: “Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ trong trường hợp truy nã bị can, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác” để tránh nhầm lẫn là VKS có cả quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ (trừ trường hợp bắt truy nã bị can) trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Kiến nghị bỏ quy định tại Điểm 6 Điều 112 “Quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án” để đưa vào chương truy tố VAHS.
- Kiến nghị bổ sung những nội dung thực hành quyền công tố của VKS đã quy định ở những điều luật cụ thể khác như Khoản 2 Điều 119, Khoản 2 Điều 120, Điều 116 để Điều 112 trở thành điều luật quy định chức năng thực năng thực hành quyền công tố của VKS ở giai đoạn điều tra.
- Đối với Khoản 3 Điều 112 “Yêu cầu CQĐT thay đổi ĐTV theo quy định của Bộ luật này; nếu thấy hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự” cần phải có hướng dẫn cụ thể. Nếu trường hợp hành vi của ĐTV trực tiếp tiến hành tố tụng thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo quy định tại Chương XXII – BLTTHS thì việc khởi tố và điều tra thuộc thẩm quyền của CQĐT thuộc VKSNDTC mà không thuộc thẩm quyền của VKS các cấp (theo điều 110 BLTTHS). Nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu của tội phạm khác (ngoài tội phạm xâm phạm các hoạt động tư pháp) thì theo quy định tại Điều 103 BLTTHS 2003, khi phát hiện vi phạm này, VKS cần chuyển ngay tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các tài liệu có liên quan cho CQĐT có thẩm quyền kiểm tra, xác minh và giải quyết.
*Thứ hai: Đối với các quy định pháp luật về quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra, BLTTHS cần có những quy định riêng về hình thức, nội dung, thời điểm ban hành, giá trị pháp lý của yêu cầu điều tra của VKS trong quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS. Ngoài ra cần quy định cho VKS, KSV có vai trò chính trong hoạt động điều tra theo tố tụng, quyết định việc thu thập bằng chứng buộc tội và gỡ tội; chủ trì việc lập hồ sơ vụ án và quyết định việc kết thúc điều tra. Quy định rõ VKS, KSV chỉ chủ trì điều tra theo trình tự tố tụng mà không can thiệp vào tác nghiệp điều tra của CQĐT và ĐTV. Đây là vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo cho hoạt động công tố gắn với hoạt động điều tra cũng như để tăng cường trách nhiệm công tố trong suốt quá trình điều tra.
* Thứ ba: Hoàn thiện các quy định của BLTTHS theo hướng tăng cường trách nhiệm của VKS trong việc quản lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như yêu cầu của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành. Cần quy định cho VKS những quyền năng pháp lý cụ thể trong việc kiểm sát, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Kiến nghị sửa đổi Điều 103 BLTTHS theo hướng quy định trách nhiệm cho CQĐT phải thông báo ngay những nguồn tố giác, tin báo về tội phạm đã tiếp nhận đến VKS đồng thời cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết cho việc xác định dấu hiệu về tội phạm phục vụ cho công tác kiểm sát việc khởi tố VAHS của CQĐT. Trong trường hợp cần thiết, VKS có quyền yêu cầu CQĐT tiến hành xác minh thêm những tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc xử lý thông tin về tội phạm. Bên cạnh đó cần có những hướng dẫn cụ thể quy định rõ trách nhiệm của VKS đối với việc kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT như hoạt động khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra.Tuy số lượng vụ việc do các cơ quan khác ngoài CQĐT tiếp nhận, giải quyết không nhiều nhưng cần phải quy định đầy đủ thẩm quyền này cho VKSnhân dân. Đây là quyền năng pháp lý quan trọng để VKS thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.[18,tr.31]
3.2.2 Các giải pháp khác
- Giải pháp về công tác cán bộ
- Cần nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, KSV.
- Tăng cường và cải tiến công tác tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ
- Nâng cao tính thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức của cán bộ, KSV ngành kiếm sát nhân dân
- Tăng cường xây dựng mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa CQĐT và VKS.
Xét trong mối quan hệ giữa CQĐT và VKS có thể thấy rằng toàn bộ kết quả của hoạt động tư pháp, chủ yếu đều dựa trên kết quả điều tra của CQĐT. Nhưng khi xét về nội dung các quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của hai cơ quan này thì nhận thấy VKS là cơ quan có quyền quyết định mọi hành vi tố tụng ở giai đoạn này. CQĐT là cơ quan chuyên sâu về lĩnh vực điều tra hình sự, các ĐTV được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ điều tra. Chính vì thế để thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn này đòi hỏi các KSV phải chủ động, sâu sát trong phối hợp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác điều tra [20,tr.47].
Trong mối quan hệ giữa VKS và CQĐT, hai phương án sửa đổi được đưa ra: Thứ nhất, VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố, quyết định đình chỉ điều tra bị can, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay vì chỉ phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT như hiện hành. Thứ hai, cứ giữ như quy định hiện hành nhưng bổ sung cơ chế để VKS thực hiện tốt trách nhiệm phê chuẩn: Tăng thời hạn xem xét phê chuẩn, được quyền yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu hoặc giải trình, được tham gia hội đồng tuyển chọn ĐTV các cấp. Ngoài ra, VKSNDTC còn đề xuất mở rộng thẩm quyền điều tra của VKS như trong trường hợp phát hiện CQĐT có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc khi thấy cần thiết, thay vì chỉ điều tra tội phạm trong lĩnh vực tư pháp như hiện hành.[15,tr.17]
KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu đề tài : “Chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra”, tác giả đã đưa ra được những khái niệm cơ bản về hai chức năng của VKScũng như phân tích được mối quan hệ mật thiết giữa Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp.Từ đó rút ra được ý nghĩa của việc quy định chức năng của VKS đối với giai đoạn điều tra cũng như đối với quá trình giải quyết VAHS nói chung.
Từ nhận thức về mặt lý luận, tác giả đi sâu phân tích các quy định của BLTTHS 2003 cũng như các văn bản pháp lý có liên quan về thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc nghiên cứu và làm rõ những quy định về chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra được ghi nhận tại Điều 112 và 113 BLTTHS giúp ta thấy được vị trí cũng như vai trò quan trọng của cơ quan này đối với giai đoạn điều tra.
Song song với việc tìm hiểu về lý luận cũng như các quy định của pháp luật TTHS hiện hành, tác giả đi sâu vào đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong những năm gần đây của VKS các cấp trong cả nước. Từ đó nhận thấy rằng những quy định của pháp luật TTHS về hai chức năng của VKS còn bỏ ngỏ hoặc quy định chung chung thiếu sự rõ rằng và thống nhất gây khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trong những năm vừa qua, việc thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ mới. Để chức năng của VKS trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn cần chú trọng một số vấn đề: hoàn thiện hệ thống pháp luật, nắm vững và thực hiện đúng, đầy đủ vai trò, chức năng nhiệm vụ của ngành, tăng cường sự phối hợp giữa CQĐT và VKS, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Báo cáo số 09/BC–VKSTC ngày 20/01/2012 của VKSNDTC về Tổng kết việc thi hành Hiến pháp 1992 trong ngành Kiểm sát nhân dân.
- Bộ luật Hình sự 1999.
- Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003.
- Bộ luật Tố tụng Hình sự Đức.
- Bộ Luật Tố tụng Hình sự Pháp.
- Đinh Xuân Thảo (2009), “Những vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát 16 (8),38-43.
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi 2001.
- Lê Hữu Thể, Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005.
- Lê Thị Thanh Hằng (2006), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định của luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Luật tổ chức VKSND 2002.
- Nguyễn Thu Huệ (2004), “Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong Tố tụng Hình sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Tiến Sơn (2009), “Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, 09, tr 21-25.
- Phạm Thị Thùy Linh (2012), Quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận án thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ – VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSNDTC).
- Nguyễn Văn Chuyển (2012), “Tăng quyền cho Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra”, Tạp chí pháp luật, 7, tr14 – 17.
- Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTS-BCA-BQP ngày 07 tháng 09 năm 2005 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003.
- Dương Văn Phùng (2012),“Tăng cường trách nhiệm thực hành quyền công tố trong việc quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn”, Tạp chí kiểm sát, 16(8), tr19-24.
- Hoàng Anh Tuyên (2012), “Hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, 10(5), tr 28-32.
- Nguyễn Văn Quảng (2007), “Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số Tân Xuân,2(1 ),tr.33-37.
- Phạm Mạnh Hùng (2007), “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, 18(9),tr.45-48.
- Vũ Gia Lâm (2010), “Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát và Tòa án”, Tạp chí Luật học, 8, tr 32-37.
- Hoàng Thị Sơn (2004), “Thực hiện quyền công cố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí luật học đặc san về Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, 1, tr.65-73 ;
- Viện khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, NXB tư pháp – NXB từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008) , “Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự”;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2008;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2009;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2010;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2011;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2012;
Bài liên quan:
- Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra – Chương I
- Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra – Chương 2
- Nâng cao năng lực tranh tụng của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự
- Sự tham gia của Viện kiểm sát trong các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn
- Mối quan hệ giữa một số chủ thể tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
- Bàn về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
- Quá trình phát triển và kế thừa của pháp luật Thừa kế
- Vai trò của quyết định hành chính trong quản lí hành chính nhà nước
- Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra – Chương 2
- Những thuận lợi, khó khăn vướng mắc và bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn triển khai thực hiện Chương trình cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001 – 2010
- Những điểm mới Luật Đầu tư 2014
- Áp dụng pháp luật lao động trong việc tạo điều kiện cho tổ chức đại diện người lao động được thành lập và hoạt động tại doanh nghiệp
- Hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về quyền bào chữa: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp
- Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất tại ubnd cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi – những vấn đề cần suy ngẫm!
- Bàn về mối quan hệ giữa công lý và luật pháp
- Các vấn đề về Quy định của Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ về sản xuất, kinh doanh “tiền chất thuốc nổ”
- Những điểm mới về quyền của người khiếu nại trong Luật Khiếu nại nhằm bảo vệ quyền của công dân
- Một số vấn đề về cấu trúc, vật quyền và trái quyền trong Bộ Luật Dân sự Đức mà Việt Nam có thể tham khảo
- Nhiều bất cập trong thi tuyển viên chức
- Nhìn lại vụ việc giữa công ty Tân Hiệp Phát và công ty liên doanh bia Việt Nam – những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
- Vị trí chiến lược của Biển Đông và vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông
- Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930
- Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra – Chương 3
- Thí điểm thi tuyển lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp
- Luật Lập pháp của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
- Bàn về mối quan hệ phối hợp trong công tác tổ chức, cán bộ thi hành án dân sự
- Một số nhận định về sự ra đời của Luật Biển Việt Nam
- Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật
- Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay
- Người cao tuổi, người già cô đơn và vấn đề trợ giúp pháp lý cho đối tượng này ở Việt Nam
- Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – Những vấn đề đặt ra trong tình hình mới