Một số quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về xóa án tích
06/05/2016
Án tích là việc người đã bị kết án (hình sự) và thi hành hình phạt mà chưa được xóa án. Sau khi thi hành bản án hình sự 1 thời gian nhất định thì người bị kết án được mặc nhiên xoá án tích hoặc được toà án cấp chứng nhận xoá án tích. Xóa án tích là một chế định quan trọng, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ Xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Theo quy định tại các Điều 63, 64, 65, 66, 67 Bộ luật hình sự năm 1999, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa án cấp giấy chứng nhận hoặc ra Quyết định xóa án tích trong những trường hợp sau đây:
1. Đương nhiên xóa án tích đối với:
– Người được miễn hình phạt.
– Người bị kết án không phải về các tội quy định tại ChươngXI (Các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và chương XXIV (các tội phá họai hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh), nếu từ khi chấp hành xong bản án (về hình phạt và các khoản tiền án phí, tiền phạt hoặc khoản tiền bồi thường dân sự khác) hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành án, người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau:
· Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo;
· Ba năm trong trường hợp phạt tù đến ba năm;
· Năm năm trong trường hợp phạt tù trên ba năm đến mười lăm năm;
· Bảy năm trong trường hợp phạt tù trên mười lăm năm.
2. Xoá án tích theo quyết định của tòa án:
Tòa án quyết định xoá án tích đối với những người bị kết án về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV Bộ luật Hình sự, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án, trong các trường hợp sau đây:
· Đã bị phạt tù ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ khi chấp hành xong bản án họặc kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
· Đã bị phạt tù trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc hết thời hiệu thi hành án.
· Đã bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc hết thời hiệu thi hành án.
Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích; nếu bị Tòa án bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.
3. Xoá án tích trong trường hợp đặc biệt:
Trong trường hợp người bị kết án có những tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị thì có thể được Tòa án xóa án tích nếu người đó đã đảm bảo ít nhất một phần ba thời hạn quy định.
Khi người bị kết án đương nhiên xóa án tích, nếu cần cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì làm đơn kèm các tài liệu như giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của trại giam nơi thụ hình án cấp; giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khoản bồi thường, án phí, tiền phạt; giấy chứng nhận không phạm tội mới do Công an Quận, Huyện nơi người bị kết án thường trú cấp (theo mẫu quy định của ngành Công an), bản sao hộ khẩu; bản sao chứng minh nhân dân.
Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, ngoài các lọai tài liệu như trên, phải có văn bản đề nghị của chính quyền, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án thường trú, công tác.
Về thẩm quyền xét đơn xin xóa án tích: Tòa án đã xét xử sơ thẩm là Tòa án có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận xóa án tích, hoặc ra Quyết định xóa án tích. Người xin xóa án tích nộp hồ sơ xin xóa án tích tại Tòa án đã xét xử sơ thẩm (có thể nộp trực tiếp hoặc gửi qua đường Bưu điện).
* Những quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về Xóa án tích:
– Xóa án tích được quy định tại Điều 69 của Bộ luật hình sự:
“1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này.
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.”
Một quy định rất mới của điều luật này được quy định tại khoản 2 của điều luật, đó là:
“2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”
Quy định này cũng có nghĩa là người bị kết án trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 2015 không thuộc trường hợp tái phạm, cũng không thuộc trường hợp được coi là dấu hiệu định tội của một số tội phạm có quy định về các trường hợp đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
– Về trường hợp đương nhiên được xóa án tích (Điều 70). Đây là một điều luật được sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Điều luật được thiết kế thành 04 khoản để đảm bảo quy định cụ thể, rõ ràng hơn về chế định này. Khoản 1 quy định trên tinh thần của khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999:
“Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án. Không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXII của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách của án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.”
Thứ hai: Các thời hạn để được coi là đương nhiên xóa án tích đã được rút ngắn lại đối với các trường hợp bị phạt tù đến 05 năm, trên 05 năm đến 15 năm và trên 15, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. (Điều 64 BLHS năm 1999 không quy định đương nhiên xóa án tích đối với trường hợp tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án)
Thứ ba: Khoản 2 của điều luật này quy định:
“Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này, thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.”
Thứ tư: Khoản 4 của điều luật quy định:
“4. Cơ quan quản lý dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu, thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.
Theo quy định mới này, thì Tòa án sẽ không còn trách nhiệm phải cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người đương nhiên được xóa án tích nữa mà trách nhiệm này thuộc về cơ quan hành pháp.
– Về trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71)
Về cơ bản, chế định xóa án tích theo quyết định của Tòa án được kế thừa quy định của Điều 65 BLHS năm 1999, nhưng có một số sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất: Sửa vể kỹ thuật luật pháp (tương tự như Điều 70 đương nhiên được xóa án tích)
Thứ hai: giảm thời hạn được đề nghị Tòa án ra quyết định xóa án tích đối với trường hợp bị phạt tù trên 05 năm đến 15 năm và trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Thứ ba: Khoản 2 của điều luật này bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a khoản này, thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
– Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72)
Về cơ bản, tinh thần của Điều 66 BLHS năm 1999 vẫn được kế thừa trong quy định của điều luật này, chỉ có một vài sửa đổi có tính chất kỹ thuật và rõ ràng hơn. Cụ thể là :
– Sửa từ “nơi người đó thường trú” thành “nơi người đó cư trú”
– Quy định rõ hơn về một “một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”
– Cách tính thời hạn để xóa án tích (Điều 73)
“1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.
2. Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.
3. Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án, thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích vơi người đó.”
Hầu hết các quy định về xóa án tích đều thay cụm từ “phạm tội mới” bằng cụm từ “thực hiện hành vi phạm tội mới”, riêng khoản 2 Điều 73 sử dụng cụm từ thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật vì đây là trường hợp tính lại thời hạn để xóa án tích.
Theo quy định tại các Điều 63, 64, 65, 66, 67 Bộ luật hình sự năm 1999, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa án cấp giấy chứng nhận hoặc ra Quyết định xóa án tích trong những trường hợp sau đây:
1. Đương nhiên xóa án tích đối với:
– Người được miễn hình phạt.
– Người bị kết án không phải về các tội quy định tại ChươngXI (Các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và chương XXIV (các tội phá họai hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh), nếu từ khi chấp hành xong bản án (về hình phạt và các khoản tiền án phí, tiền phạt hoặc khoản tiền bồi thường dân sự khác) hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành án, người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau:
· Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo;
· Ba năm trong trường hợp phạt tù đến ba năm;
· Năm năm trong trường hợp phạt tù trên ba năm đến mười lăm năm;
· Bảy năm trong trường hợp phạt tù trên mười lăm năm.
2. Xoá án tích theo quyết định của tòa án:
Tòa án quyết định xoá án tích đối với những người bị kết án về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV Bộ luật Hình sự, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án, trong các trường hợp sau đây:
· Đã bị phạt tù ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ khi chấp hành xong bản án họặc kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
· Đã bị phạt tù trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc hết thời hiệu thi hành án.
· Đã bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc hết thời hiệu thi hành án.
Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích; nếu bị Tòa án bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.
3. Xoá án tích trong trường hợp đặc biệt:
Trong trường hợp người bị kết án có những tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị thì có thể được Tòa án xóa án tích nếu người đó đã đảm bảo ít nhất một phần ba thời hạn quy định.
Khi người bị kết án đương nhiên xóa án tích, nếu cần cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì làm đơn kèm các tài liệu như giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của trại giam nơi thụ hình án cấp; giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khoản bồi thường, án phí, tiền phạt; giấy chứng nhận không phạm tội mới do Công an Quận, Huyện nơi người bị kết án thường trú cấp (theo mẫu quy định của ngành Công an), bản sao hộ khẩu; bản sao chứng minh nhân dân.
Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, ngoài các lọai tài liệu như trên, phải có văn bản đề nghị của chính quyền, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án thường trú, công tác.
Về thẩm quyền xét đơn xin xóa án tích: Tòa án đã xét xử sơ thẩm là Tòa án có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận xóa án tích, hoặc ra Quyết định xóa án tích. Người xin xóa án tích nộp hồ sơ xin xóa án tích tại Tòa án đã xét xử sơ thẩm (có thể nộp trực tiếp hoặc gửi qua đường Bưu điện).
* Những quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về Xóa án tích:
– Xóa án tích được quy định tại Điều 69 của Bộ luật hình sự:
“1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật này.
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.”
Một quy định rất mới của điều luật này được quy định tại khoản 2 của điều luật, đó là:
“2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”
Quy định này cũng có nghĩa là người bị kết án trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 2015 không thuộc trường hợp tái phạm, cũng không thuộc trường hợp được coi là dấu hiệu định tội của một số tội phạm có quy định về các trường hợp đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
– Về trường hợp đương nhiên được xóa án tích (Điều 70). Đây là một điều luật được sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Điều luật được thiết kế thành 04 khoản để đảm bảo quy định cụ thể, rõ ràng hơn về chế định này. Khoản 1 quy định trên tinh thần của khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999:
“Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án. Không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXII của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách của án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.”
Thứ hai: Các thời hạn để được coi là đương nhiên xóa án tích đã được rút ngắn lại đối với các trường hợp bị phạt tù đến 05 năm, trên 05 năm đến 15 năm và trên 15, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. (Điều 64 BLHS năm 1999 không quy định đương nhiên xóa án tích đối với trường hợp tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án)
Thứ ba: Khoản 2 của điều luật này quy định:
“Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này, thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.”
Thứ tư: Khoản 4 của điều luật quy định:
“4. Cơ quan quản lý dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu, thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.
Theo quy định mới này, thì Tòa án sẽ không còn trách nhiệm phải cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người đương nhiên được xóa án tích nữa mà trách nhiệm này thuộc về cơ quan hành pháp.
– Về trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71)
Về cơ bản, chế định xóa án tích theo quyết định của Tòa án được kế thừa quy định của Điều 65 BLHS năm 1999, nhưng có một số sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất: Sửa vể kỹ thuật luật pháp (tương tự như Điều 70 đương nhiên được xóa án tích)
Thứ hai: giảm thời hạn được đề nghị Tòa án ra quyết định xóa án tích đối với trường hợp bị phạt tù trên 05 năm đến 15 năm và trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Thứ ba: Khoản 2 của điều luật này bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a khoản này, thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
– Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72)
Về cơ bản, tinh thần của Điều 66 BLHS năm 1999 vẫn được kế thừa trong quy định của điều luật này, chỉ có một vài sửa đổi có tính chất kỹ thuật và rõ ràng hơn. Cụ thể là :
– Sửa từ “nơi người đó thường trú” thành “nơi người đó cư trú”
– Quy định rõ hơn về một “một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”
– Cách tính thời hạn để xóa án tích (Điều 73)
“1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.
2. Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.
3. Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án, thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích vơi người đó.”
Hầu hết các quy định về xóa án tích đều thay cụm từ “phạm tội mới” bằng cụm từ “thực hiện hành vi phạm tội mới”, riêng khoản 2 Điều 73 sử dụng cụm từ thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật vì đây là trường hợp tính lại thời hạn để xóa án tích.
Hồ Nguyễn Quân – Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4