Giám định là việc người giám định sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định, theo quy định của pháp luật(1). Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự, ở một số vụ án đặc thù kết luận giám định còn có tính chất quyết định đối với phán quyết của Tòa án. Kế thừa và phát triển các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, ngày 25/11/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua theo Luật số 92/2015/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 (BLTTDS năm 2015) với những sửa đổi cơ bản về nguồn chứng cứ và thủ tục thu thập chứng cứ để đánh giá tính hợp pháp của kết luận giám định. Bài viết trao đổi xung quanh quy định tại Điều 102 BLTTDS năm 2015 về “Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định” để luận giải và đánh giá đa chiều về điều luật từ góc nhìn ứng dụng nhằm tìm cách hiểu và đề xuất cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất khi BLTTDS năm 2015 triển khai thi hành trong thực tiễn.
1. Xác định chứng cứ là kết luận giám định và một số vướng mắc khi thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 về thu thập chứng cứ là kết luận giám định
Trong nhiều vụ việc dân sự, để làm sáng tỏ một số tình tiết nhất định đòi hỏi phải sử dụng những kiến thức chuyên môn cần thiết với sự hỗ trợ của Giám định viên. Kết luận của Giám định viên là một kết luận khoa học về chuyên môn được thể hiện dưới hình thức một văn bản viết hoặc được trình bày tại phiên tòa, được đưa ra sau khi đã nghiên cứu những vấn đề cần vận dụng kiến thức chuyên môn trả lời cho những yêu cầu do Tòa án trưng cầu. Trong trường hợp việc đánh giá chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức chuyên môn như xác định chữ viết, chữ ký, vân tay của một người nào đó hay cần xác định nguyên nhân gây thiệt hại trong xây dựng, xác định ADN… và theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc có yêu cầu của đương sự về việc trưng cầu giám định, Tòa án cần phải trưng cầu giám định khoa học để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Biện pháp trưng cầu giám được quy định tại Điều 90 BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 về “Chứng cứ và chứng minh”. Theo đó, kết luận giám định được xác định là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục được pháp luật quy định, cụ thể được ghi nhận tại Luật giám định tư pháp năm 2012 và Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giám định tư pháp.
Với quy định, biện pháp thu thập chứng cứ là kết luận giám định chỉ được Tòa án thực hiện khi có sự thỏa thuận lựa chọn của các đương sự hoặc có yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, cho thấy pháp luật không dành sự chủ động áp dụng biện pháp này cho Tòa án cũng như không dành cho đương sự được quyền đề nghị trưng cầu giám định. Người tham gia tố tụng chỉ có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định, không được trực tiếp yêu cầu tổ chức giám định tư pháp thực hiện đã gây ảnh hưởng nhất định đến tiến độ giải quyết các vụ án dân sự, phần nào đó làm hạn chế việc đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh. Từ góc nhìn của thực tiễn xét xử, phần lớn các vụ việc có nhiều người tham gia tố tụng và có trường hợp có đương sự có biểu hiện mắc bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác làm hạn chế, mất năng lực hành vi dân sự thì cần thiết phải thực hiện giám định tâm thần để Tòa án có căn cứ cử người đại diện cho đương sự đó và giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nhưng trong trường hợp này các đương sự còn lại không thỏa thuận lựa chọn hoặc không yêu cầu giám định thì Tòa án không có căn cứ yêu cầu giám định và vụ án bị kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bên cạnh đó, quy định này không phù hợp với quy định của Luật giám định tư pháp.
Luật giám định tư pháp có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, là cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động giám định trong tố tụng, trong đó có tố dụng dân sự (TTDS). Những vấn đề chưa được quy định trong BLTTDS hoặc được quy định trong BLTTDS nhưng trái với quy định của Luật giám định tư pháp thì áp dụng Luật giám định tư pháp. Luật này đã cho thấy nhiều sự tiến bộ, giải quyết những bất cập, thiếu sót của Pháp lệnh giám định tư pháp trước đây. Đặc biệt, đó là đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định tư pháp: “Giám định tư pháp có thể tiến hành theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này” (khoản 1 Điều 2 Luật giám định tư pháp năm 2012). “Người yêu cầu giám định bao gồm: Đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, …” (khoản 3 Điều 2 Luật giám định tư pháp năm 2012). Bên cạnh đó, tại khoản 3 Điều 45 Luật giám định tư pháp ghi nhận: “Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính về giám định tư pháp có nội dung khác với Luật này thì áp dụng quy định của Luật này”. Như vậy, Luật giám định tư pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bên đương sự chủ động thu thập chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.“Đây là bước tiến đáng kể trong hoạt động tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ hóa hoạt động tố tụng, góp phần mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”(2). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề mà luật đang còn bỏ ngỏ, tạo ra khó khăn cho hoạt động thu thập chứng cứ. Trong đó có thời hạn giám định? Được giám định tối đa mấy lần trong một vụ án? Chưa có cơ chế giải quyết khi có nhiều kết luận giám định mâu thuẫn nhau? Việc ghi nhận cho đương sự tự mình tiến hành giám định trong Luật giám định tư pháp đã tạo điệu kiện thuận lợi cho đương sự tiến hành thu thập chứng cứ. Nhưng nếu không hạn chế quyền của đương sự sẽ dẫn đến việc trưng cầu giám định để phục vụ các mục đích ngoài tố tụng hoặc các đương sự cùng tiến hành giám định dẫn đến lãng phí, mất thời gian và không đảm bảo quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Do đó, Điều 22 Luật giám định tư pháp quy định: “Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định”. Do vậy, đương sự chỉ có quyền yêu cầu giám định khi bị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối trưng cầu giám định. Vấn đề là, việc bỏ ngỏ quy định trong BLDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự dẫn đến không thực thi quyền này dù Luật giám định tư pháp cho phép. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 26 Luật giám định tư pháp ghi nhận “Người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định”. Như vậy, Luật giám định tư pháp chỉ chấp nhận yêu cầu giám định khi người đó xuất trình được “văn bản giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự”. Vậy nếu họ chưa phải là đương sự thì họ có quyền yêu cầu giám định hay không? và nếu họ có được kết luận giám định trước khi tiến hành tố tụng thì đó có được xem là chứng cứ?
Có thể thấy, quy định tại Điều 90, Điều 91 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 đã có những xung đột so với Luật giám định tư pháp năm 2012 và không phù hợp với những đòi hỏi thực tế. Điều này đặt ra những vấn đề cần thiết phải có những sửa đổi, bổ sung cơ bản góp phần thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự và phù hợp với thông lệ quốc tế ở nhiều nước trên thế giới. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự trong nhiều năm qua cho thấy số lượng các vụ việc dân sự phải trưng cầu giám định ngày một gia tăng do sự đa dạng của các loại vụ việc và đối tượng trưng cầu giám định cũng như khả năng đáp ứng các lĩnh vực giám định kỹ thuật. Với quy định hiện hành tại Điều 90 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 không phù hợp với tính chất và nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Việc sửa đổi quy định về trưng cầu giám định trong BLTTDS năm 2015 tiếp thu trên tinh thần này và góp phần thể hiện rõ nguyên tắc trọng tâm, đặc trưng của TTDS.
2. Quy định sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định về cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau ở chủ thể yêu cầu. Trưng cầu giám định là việc Tòa án, Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám định. Yêu cầu giám định là đương sự yêu cầu cơ quan tổ chức tiến hành hoạt động giám định theo quy định của Luật giám định tư pháp. Quy định về yêu cầu giám định lần đầu tiên ghi nhận trong BLTTDS năm 2015 tại Điều 102 như sau:
1. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
2. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
3. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa để trực tiếp trình bày về các nội dung cần thiết.
4. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án đã được kết luận giám định trước đó.
5. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Có thể nói, đây là một điều luật có sửa đổi căn bản so với BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Sự sửa đổi này, một mặt khắc phục những vướng mắc từ thực tiễn xét xử, mặt khác ghi nhận phù hợp hơn với quy định của Luật giám định tư pháp. Lần đầu tiên quy định bổ sung cho đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự được pháp điển hóa chính thức trong Luật tố tụng. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Việc trao quyền cho đương sự tự mình trưng cầu giám định khi Tòa án từ chối trưng cầu giám định là cách chứng minh của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền của mình nhất là đối với các tranh chấp dân sự trong nhiều năm qua với số lượng các vụ việc dân sự phải trưng cầu giám định ngày một gia tăng do sự đa dạng của các loại vụ việc và đối tượng trưng cầu giám định cũng như khả năng đáp ứng các lĩnh vực giám định kỹ thuật.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự của một số nước, có thể nói quy định về bổ sung thẩm quyền của Tòa án được quyền ban hành quyết định trưng cầu giám định khi đương sự không yêu cầu nhưng Tòa án xét thấy cần thiết ở Việt Nam có sự tương đồng so với một số nước. Theo quy định tại Điều 232 BLTTDS của Cộng hòa Pháp(3) “Thẩm phán có thể ủy thác cho bất kỳ người nào do mình lựa chọn để giúp Thẩm phán làm sáng tỏ vụ việc thông qua việc xác nhận, tư vấn hoặc giám định về một vấn đề thực tiễn đòi hỏi phải có sự hiểu biết của kỹ thuật viên”, Điều 263 quy định: “Thẩm phán chỉ quyết định trưng cầu giám định khi biện pháp trưng cầu xác nhận hoặc ý kiến tư vấn của chuyên gia không đủ làm sáng tỏ vấn đề mà Thẩm phán cần giải quyết” hoặc theo quy định tại Điều 79 BLTTDS Liên bang Nga(4):“ Trong trường hợp phát sinh vấn đề cần kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, thủ công thì Tòa án trưng cầu giám định. Việc giám định có thể do cơ quan giám định tư pháp, một hoặc nhiều người giám định khác thực hiện”… Nhìn từ góc độ so sánh, các quy định về trưng cầu giám định trong BLTTDS của Cộng hòa Pháp hay Liên bang Nga đều ghi nhận dành quyền chủ động cho Thẩm phán nhằm xác định những thông tin xác thực liên quan đến kiến thức chuyên môn. Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã dung hòa điều kiện áp dụng bên cạnh việc trao quyền cho đương sự thì trong những trường hợp cần thiết đảm bảo tính đúng đắn cho việc giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án được quyền chủ động áp dụng.
Theo tinh thần của Điều 102 BLTTDS năm 2015, hoạt động giám định trong tố tụng dân sự có thể tiến hành trong các trường hợp sau: Các đương sự thỏa thuận lựa chọn biện pháp giám định và yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định; một trong các bên đương sự yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định; trong trường hợp Tòa án từ chối trưng cầu giám định thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định.
Theo sự thỏa thuận của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải được thể hiện bằng văn bản, có thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất… Thẩm phán căn cứ vào quy định của BLTTDS, Luật giám định tư pháp 2012 để tiến hành trưng cầu giám định.
Trong trường hợp Tòa án từ chối trưng cầu giám định thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định. Người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự. Việc giao nhận hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định được giao, nhận trực tiếp hoặc gửi cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định qua đường bưu chính.
Ngoài ra, các chủ thể còn có quyền trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại. Người trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người yêu cầu giám định quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do. Việc giám định bổ sung được thực hiện trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó. Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu. Giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác hoặc trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.
Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa để trực tiếp trình bày về các nội dung cần thiết.
3. Một số vấn đề còn vướng mắc khi hiểu và vận dụng quy định về trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
Thứ nhất, pháp luật bỏ ngỏ chế tài áp dụng đối với đương sự không chấp hành quyết định về trưng cầu giám định của Tòa án
Qua thực tiễn xét xử, do tính chất đặc thù của một số vụ án (ví dụ: Vụ án xác định cha, mẹ, con…), kết luận giám định được xác định là căn cứ mấu chốt và quyết định để chứng minh cho yêu cầu hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, trong nhiều vụ án, khi nguyên đơn yêu cầu trưng cầu giám định ADN, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định. Bị đơn (người bị kiện để xác định là cha hoặc mẹ đứa trẻ…) đã từ chối không chấp nhận đi giám định ADN. Vấn đề đặt ra là, theo nguyên tắc bất khả xâm phạm và nguyên tắc chấp thuận của cá nhân được điều chỉnh bởi BLDS thì Tòa án hoặc cơ quan chuyên môn không thể lấy mẫu xét nghiệm (máu, tóc…) từ cơ thể người bị yêu cầu để xét nghiệm nếu người bị yêu cầu không tự nguyện và không đồng ý. Đây chính là quy định mâu thuẫn giữa các quyền dân sự và quyền tố tụng mà việc giải quyết nó không hề đơn giản. Dưới góc độ tố tụng dân sự, trường hợp này đến BLTTDS năm 2015 vẫn bỏ ngỏ chưa được quy định trong luật. Chính từ sự trống vắng quy định điều chỉnh trong luật dẫn đến nhiều vụ án xác định cha, mẹ, con thiếu cơ sở khoa học cũng như cơ sở pháp lý để giải quyết khi không có kết quả giám định gen và vẫn tiếp tục phải chờ những những hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền nhằm để tháo gỡ những bế tắc trong việc giải quyết một số loại án đặc thù hiện nay
Qua nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự của nước ngoài, kết hợp với thực tế tại Việt Nam, chúng tôi cho rằng, khi triển khai thực thi BLTTDS năm 2015 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần thiết có hướng dẫn cụ thể về hậu quả pháp lý của việc đương sự từ chối thực hiện quyết định trưng cầu giám định của Tòa án để tháo gỡ những bế tắc trong việc giải quyết một số loại án đặc thù hiện nay, cụ thể là:
“Trong trường hợp một bên trốn tránh việc tiến hành giám định, không cung cấp tài liệu cần thiết cho người giám định, hoặc trong trong những trường hợp căn cứ vào những tình tiết của vụ án mà nếu không có sự tham gia của một bên thì việc giám định không thể tiến hành được cũng như việc giám định có ý nghĩa đối với bên đó thì Tòa án có quyền thừa nhận sự kiện cần phải trưng cầu giám định là được khẳng định hoặc bị bác bỏ”.
Thứ hai, xác định cơ sở đối với yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự
Với quy định của BLTTDS hiện hành giám định trong tố tụng dân sự có thể được tiến hành với hai phương thức là trưng cầu giám định và yêu cầu giám định. Khi đối chiếu hai quy định trên thì khi yêu cầu giám định đương sự phải chứng minh mình đã bị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối trưng cầu giám định. Vấn đề đặt ra là đương sự phải chứng minh như thế nào nếu người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng từ chối không bằng văn bản. Mặc khác, thời hạn giám định của đương sự cũng bị hạn chế khi “chỉ được yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”, vậy các trường hợp chứng cứ mới xuất trình ở cấp phúc thẩm mà đương sự đã không thể biết ở cấp sơ thẩm vì có lý do khách quan, chính đáng và có nghi ngờ về tính xác thực của các chứng cứ này thì đương sự có được thực hiện quyền yêu cầu giám định khi Tòa án từ chối trưng cầu giám định hay không?
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật giám định tư pháp, hoạt động giám định phải được tiến hành một cách “trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời”. Khi tiến hành giám định cần phải lấy mẫu so sánh kèm theo đối tượng giám định. Vậy hoạt động lấy mẫu giám định cần phải tiến hành như thế nào để đạt được sự chính xác, khách quan. Nếu một người được yêu cầu cung cấp mẫu giám định nhưng họ phản đối, không cung cấp thì Tòa án, người yêu cầu hoặc người giám định có được áp dụng các biện pháp cưỡng chế để lấy mẫu hay không? Hoặc không biết bằng cách nào mà họ có được mẫu kể cả việc lén lút lấy mẫu để tiến hành giám định. Kết quả giám định cuối cùng cho thấy mẫu giám định và đối tượng giám định là giống nhau, nhưng liệu rằng kết quả này có được Tòa án chấp nhận khi mà người bị lấy mẫu kịch liệt phản đối? Do Luật giám định tư pháp vẫn chưa có quy định nào liên quan đến việc lấy mẫu giám định, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả giám định. Bên cạnh đó, quy định sửa đổi bổ sung về trưng cầu giám định, yêu cầu giám định của BLTTDS năm 2015 cũng bỏ ngỏ quy định này nên không có cơ sở buộc người có yêu cầu phải có nghĩa vụ cung cấp mẫu giám định, người được yêu cầu không cung cấp mẫu để giám định thì làm sao có đủ căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ ba, về nghĩa vụ tham gia tố tụng của người giám định tại phiên tòa theo triệu tập của Tòa án
Trong nhiều vụ việc dân sự, sự có mặt của người giám định tại phiên tòa là để bảo vệ kết luận giám định, giải thích làm rõ hơn kết luận giám định giúp cho đương sự cũng như Tòa án có cơ sở giải quyết vụ việc một cách khách quan, đúng pháp luật. Với tư cách là người tham gia tố tụng, người giám định sẽ giải thích về đối tượng giám định, quá trình giám định, phương pháp giám định để đi đến kết luận giám định. Vai trò của người giám định được thể hiện ở hai phương diện: Cung cấp chứng cứ (kết luận giám định) và tham gia tranh tụng qua việc giải thích kết luận giám định. Sự tham gia của người giám định tại phiên tòa giúp cho Thẩm phán và những người tham gia tố tụng có thể hiểu chính xác, nhất là đối với những loại hình giám định công nghệ cao đòi hỏi hệ thống tri thức mới, phức tạp. Để thuận lợi cho hoạt động của người giám định bảo vệ kết luận trước Tòa và thực thi có hiệu quả hướng dẫn tại khoản 3 Điều 102 BLTTDS năm 2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể quy định trách nhiệm của người giám định khi được Thẩm phán chủ tọa phiên tòa triệu tập. Ngoài ra, cũng cần có những quy định về chi phí hợp lý cho việc đi lại cũng như ngày công khi người giám định tham gia phiên tòa.
(1) Xem: Khoản 1 Điều 2 Luật giám định tư pháp 2012
(2) Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật – Vụ Bổ trợ tư pháp (2012), Đề cương giới thiệu Luật giám định tư pháp, Bộ Tư Pháp, tr 6.
(3) Nhà pháp luật Việt Pháp (1998), Bộ luật TTDS của Cộng hòa Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia.
(4) Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga, Nxb. Tư pháp, 2005.
Nguyễn Minh Hằng* – Bùi Xuân Trường**
*Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Học viện Tư pháp.
**Thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: TCKS số 07/2016