Quy định của Hiến pháp và pháp luật về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán
Không phải cho tới thời kỳ đương đại, chúng ta mới bàn về nguyên tắc “Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, mà trong lịch sử, nguyên tắc này đã được đề cập tại Bộ luật Hồng Đức. Điều 672 Bộ luật này quy định: “Các quan kể trên phải xét xử cho công bằng và đúng pháp luật”. Điều 720 cũng qui định: “Không ai được cố chấp ý riêng mình, bắt mọi người phải tuân theo”. Tuy nhiên, đấy chỉ mới là những manh nha của nguyên tắc xét xử độc lập. Tính độc lập của Thẩm phán chính là sự gắn kết tuyệt đối các Thẩm phán với luật pháp. Tính độc lập của Thẩm phán sẽ bảo vệ quyền lực tư pháp trước sự can thiệp từ phía lập pháp, hành pháp cũng như các tổ chức khác trong xã hội. Montesquieu cho rằng, quyền lực nào cũng bị đe dọa lạm dụng, như vậy, người nào cũng có xu thế lạm dụng quyền lực mình đang có trong tay, cho tới khi chạm phải rào cản. Với quyền lực tư pháp, Montesquieu chủ trương khi xét xử Thẩm phán không cần nhận chỉ thị từ đâu, mà chỉ tuân thủ luật pháp. Khi giải thích, áp dụng các chuẩn mực, Thẩm phán không cần phải theo ý kiến đa số và cần hành động dựa vào pháp luật và niềm tin nội tâm. Đề cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Xirêon – một luật sư và là nhà hùng biện nổi tiếng La mã cổ đại đã từng nói: “Quan toà là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan toà câm”.
Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động của bộ máy nhà nước sẽ mất đi những giá trị xã hội to lớn của nó nếu tính độc lập của Thẩm phán không được đảm bảo. Sự vi phạm nguyên tắc này dẫn đến sự lạm dụng quyền lực, sư thoái hóa của quyền lực và xã hội dĩ nhiên sẽ gánh chịu những hậu quả to lớn của tình trạng này.
1. Thực trạng quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp cũng như được thể chế trong các đạo luật về tổ chức Tòa án – cơ quan xét xử, cũng như các đạo luật về tố tụng của Nhà nước Việt Nam. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nền dân chủ cộng hòa – Hiến pháp năm 1946, thìĐiều thứ 69 đã trang trọng ghi nhận: “Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Hiến pháp năm 1959, nguyên tắc này được quy định ở Điều 100: “Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp năm 1980 ghi nhận ở Điều 131: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đến Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) thì nguyên tắc này được ghi nhận ở Điều 130: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, đồng thời, tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo Hiến pháp năm 2013, hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân cũng có những thay đổi theo tinh thần cải cách tư pháp với quy định gồm: Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. Như vậy, theo quy định này, thì hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính như theo quy định của Hiến pháp năm 1992, góp phần bảo đảm cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, Tòa án nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc mang tính đặc thù. Và một điều đặc biệt, khác với Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương, các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân được hiến định cụ thể tại Điều 103 Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 kế thừa, phát triển một số nguyên tắc đã được các bản Hiến pháp trước đây quy định.
Các nguyên tắc như xét xử có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn.
Quan trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Trong quy định các nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 có quy định các trường hợp ngoại lệ đối với một số nguyên tắc để bảo đảm việc áp dụng mềm dẻo, linh hoạt và có hiệu quả trên thực tế. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tố tụng tư pháp nói chung, trong xét xử của Tòa án nói riêng.
Có thể khẳng định, việc đặt ra yêu cầu tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính là một chủ trương đúng đắn và để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Độc lập xét xử là một yêu cầu cao nhất thuộc quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Khi hình thành quyết định giải quyết vụ việc, người có thẩm quyền xét xử chỉ dựa vào tình tiết khách quan của vụ việc trên cơ sở pháp lý và tư duy của mình để ra quyết định mà không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài nào khác.
Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, các quy định của Hiến pháp năm 2013 đã minh định một cách cụ thể hơn so với các bản Hiến pháp trước đây. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể, sâu sắc hơn: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm”. Như vậy, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử, chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử”. Cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm” trong công tác xét xử cũng là bảo đảm cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử.
Trên thực tế, ngoài mối quan hệ với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân còn mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Trong rất nhiều trường hợp, Thẩm phán, hội thẩm nhân dân bị ảnh hưởng, tác động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan nhà nước, làm sai lệch quá trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có lợi cho mình. Do đó, Thẩm phán phải luôn ý thức được rằng, mình là người phải chịu trách nhiệm về nội dung, về tính công minh của bản án. Vì thế, Thẩm phán phải có bản lĩnh và phải đứng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Như vậy, xét từ những yếu tố bên ngoài thì nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho phép bất cứ ai, cơ quan nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của Tòa án dưới bất cứ lý do nào. Chính nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã nâng cao trách nhiệm của các Thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của viện kiểm sát đưa ra.
Nguyên tắc Thẩm phán độc lập khi xét xử không chỉ được thực hiện trong việc đánh giá chứng cứ, mà cả trong thẩm vấn, tranh luận trước phiên tòa và việc ra bản án, quyết định. Hiện tại, còn rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động xét xử của các Thẩm phán thiếu khách quan. Những hạn chế, bất cập này tồn tại trong cả nhận thức lẫn trong thực tiễn tổ chức thực hiện hoạt động xét xử. Có khá nhiều sự lẫn lộn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán. Điều này liên quan trước hết đến chức năng điều tra, truy tố và xét xử. Một số các nhà nghiên cứu có quan điểm rằng, hiện nay, ở Việt Nam mặc dù nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán được đề cao, nhưng địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng nhìn chung chưa được xác định một cách thoả đáng. Trong tố tụng, nhất là tố tụng hình sự có sự tham gia của hai chủ thể gần như đối lập nhau là bên bị buộc tội và bên buộc tội. Trong quan hệ tố tụng, Thẩm phán là hành động như một người đứng giữa để phân xử đúng sai nhân danh Nhà nước. Địa vị của Thẩm phán phải khác với bên buộc tội hay bên gỡ tội. Cách tiếp cận phổ biến của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay là bên bị buộc tội bị coi như là bên đã có tội rồi. Cách ăn mặc, cách xưng hô, sự đối xử đối với bên bị buộc tội gần như tạo ra tâm lý là đã ra công đường đương nhiên có tội… Trong khi đó, pháp luật quy định rất rõ rằng, mọi công dân chỉ coi là có tội khi có một bản án của Tòa án có thẩm quyền và đã có hiệu lực.
Như vậy, sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán phải có trách nhiệm xét xử đúng pháp luật, phải ngăn chặn được sự lạm dụng địa vị pháp lý trong quan hệ tố tụng. Cho nên, pháp luật về tố tụng cần có những quy định cụ thể hơn về địa vị pháp lý của các cơ quan tham gia tố tụng, trong đó, có sự quán triệt giả định vô tội trong thiết kế các quy trình thủ tục tố tụng. Trong quan hệ tố tụng có nhiều chủ thể tham gia với ba xu hướng rất rõ ràng: Buộc tội; Gỡ tội và Xét xử. Mỗi xu hướng thường được hiện thực hóa với nhưng quy trình, thủ tục và yêu cầu đặc trưng. Ba xu hướng này phải được tôn trọng và được đảm bảo độc lập thực sự.
Xét ở khía cạnh này, một số quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự đảm bảo được yêu cầu về tính độc lập. Ví dụ, khoản 1 Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới mới cần điều tra”. Quy định này đã khiến cho Thẩm phán vừa có chức năng xét xử, vừa có chức năng buộc tội. Quyết định khởi tố vụ ánh hình sự là khởi đầu cho hoạt động buộc tội. Tương tự, khi nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật hiện hành thì có thể thấy về hình thức có gì mâu thuẫn với yêu cầu về tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, phân tích kỹ về nội dung chúng ta có thể thấy một số những yếu tố có khả năng làm ảnh hưởng tới tính khách quan, vô tư của Thẩm phán. Ví dụ, Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét xử khi có đủ điều kiện cần thiết nếu Tòa án cho rằng có đủ cơ sở để chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Quy định này xem ra đã tạo cho Thẩm phán quyền quyết định khá lớn. Thực tế cho thấy, việc đưa vụ án ra xét xử phải được coi là một thủ tục và vì thế phải đảm bảo chính xác yếu tố thời hạn. Thẩm phán phải đưa vụ án ra xét xử trong phạm vi thời hạn theo qui định của pháp luật. Còn việc vụ án có đủ cơ sở hay không, có thể được làm rõ tại phiên tòa với sự tham gia của các bên trong quan hệ tố tụng.
Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”.
Độc lập với các yếu tố bên trong là khi xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình phạt mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện.
2. Những yếu tố cơ bản bảo đảm độc lập xét xử của Thẩm phán
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được Nhà nước giao trọng trách đảm bảo công lý. Thẩm phán có trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vì vậy, rất cần những vị “quan tòa” dũng cảm, công bằng, tôn trọng sự thật khách quan và độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong khi xét xử.Các yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập trong xét xử của Thẩm phán bao gồm:
2.1. Tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán
Chế độ tiến cử, tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán có ý nghĩa quan trọng đối với sự độc lập của Thẩm phán. Một quy trình đề cử và tuyển chọn tốt sẽ cho phép chọn được những ứng viên xuất sắc nhất và loại trừ hoặc giảm bớt sự thiên vị mang tính chính trị hoặc cảm tính trong quá trình bổ nhiệm Thẩm phán.
Ở Việt Nam, thực trạng quy định của pháp luật về tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán được xem xét trên hai khía cạnh: (i) Tiêu chí tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và (ii) Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.
* Tiêu chí tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 37) và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 5) thì để trở thành Thẩm phán, công dân Việt Nam phải có bằng cử nhân luật và chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ Thẩm phán, có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm và năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trên thực tế tuyển chọn, quy định “có năng lực làm công tác xét xử” là rất trừu tượng và cho đến nay vẫn chưa có cơ chế nào để đánh giá khách quan năng lực của ứng viên vào vị trí Thẩm phán.
* Về quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Kinh nghiệm cho thấy, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nếu công khai, minh bạch và dựa trên những tiêu chí về năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, chắc chắn sẽ có được một đội ngũ Thẩm phán đủ năng lực và có khả năng độc lập trong quá trình thực thi nhiệm vụ xét xử.
Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam, việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện bởi Hội đồng tuyển chọn, bao gồm: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện. Cơ cấu thành phần tham gia Hội đồng tuyển chọn luôn bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể trình tự tuyển chọn từ giai đoạn tiến cử các ứng viên và các bước lấy ý kiến, nên dẫn đến cảm giác như việc tuyển chọn Thẩm phán là quy trình khép kín, chưa có cơ chế khuyến khích các ứng viên tự làm đơn xin làm Thẩm phán.
Trên thực tế, quy trình tiến cử ứng viên làm Thẩm phán là do Lãnh đạo Tòa án giới thiệu, khiến cho Thẩm phán khi được bổ nhiệm có mối quan hệ lệ thuộc vào Lãnh đạo Tòa án, bên cạnh đó, việc phải có bản nhận xét của Lãnh đạo đơn vị, ý kiến của tập thể cán bộ, nhân viên nơi ứng viên công tác, điều này có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử sau này.
2.2. Nhiệm kỳ của Thẩm phán
Nhiệm kỳ của Thẩm phán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán bởi một số lý do như: Nếu nhiệm kỳ của Thẩm phán ngắn thì Thẩm phán phải đối diện với việc tái bổ nhiệm; việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ một lần cho đến tuổi về hưu hoặc cả đời như nhiều nước đang áp dụng tạo cho Thẩm phán sự an tâm về nhiệm kỳ chắc chắn và lâu dài; việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ dài và nên lệch thời gian so với nhiệm kỳ của những người có quyền quyết định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán. Có ý kiến cho rằng, nếu nhiệm kỳ Thẩm phán là vững chắc và ổn định thì có thể tạo cơ hội để Thẩm phán lạm dụng quyền lực và có nguy cơ tham nhũng. Việc cân bằng giữa độc lập xét xử và tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán là một nhiệm vụ khó nhưng không phải là hai vấn đề đối lập nhau. Thực chất, độc lập xét xử và tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán là hai mặt thống nhất, bổ trợ lẫn nhau, nếu không có cơ chế hợp lý về tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán thì cho dù có bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ ngắn cũng sẽ không giải quyết được vấn đề lạm dụng quyền lực và tham nhũng.
Ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, nhiệm kỳ Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là 5 năm. Thời gian qua, đã có rất nhiều ý kiến thảo luận về thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán, có ý kiến cho rằng, nhiệm kỳ Thẩm phán ngắn sẽ là biện pháp tốt để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, song cũng có ý kiến cho rằng, để đảm bảo cho Thẩm phán xét xử độc lập, các Thẩm phán phải được bổ nhiệm suốt đời hoặc chí ít cũng là thời hạn 12 năm/nhiệm kỳ, đồng thời, nên lệch thời gian so với nhiệm kỳ của những người có quyền quyết định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán. Qua khảo sát, rất nhiều Thẩm phán đều có nguyện vọng, cơ chế bổ nhiệm suốt đời sẽ làm cho họ yên tâm công tác và nâng cao tính độc lập trong xét xử, không bị áp lực mỗi khi chuẩn bị bổ nhiệm lại, trong khi đó, việc bổ nhiệm lại cũng không làm thay đổi vị trí vốn có của họ.
2.3. Miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật Thẩm phán
Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm Thẩm phán chỉ được thực hiện với lý do liên quan tới năng lực hạn chế hoặc hành vi không thích hợp của Thẩm phán khiến họ không còn xứng đáng với vị trí Thẩm phán nữa. Việc kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều phải được quyết định dựa trên những cơ sở quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán. Các quyết định liên quan tới kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều có thể bị kháng cáo và được xem xét lại bởi một cơ quan độc lập. Nguyên tắc trên có thể không áp dụng đối với những quyết định của Tòa tối cao và/hoặc của cơ quan lập pháp theo thủ tục phế truất hoặc tương tự”[1].
* Miễn nhiệm, bãi nhiệm Thẩm phán
Theo Điều 29 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, việc miễn nhiệm chức danh Thẩm phán được thực hiện trong trường hợp Thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu (miễn nhiệm đương nhiên) hoặc do sức khỏe, do hoàn cảnh gia đình hoặc vì các lý do khác mà xét thấy không đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thẩm phán cũng có thể bị bãi nhiệm khi có các căn cứ quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong các trường hợp là tội phạm hình sự bị kết án; vi phạm các quy định mà công chức không được làm; thực hiện các hành vi ngề nghiệp không đúng các quy định của pháp luật; có hành vi vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc vi phạm pháp luật khác… Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, các quy định về căn cứ bãi nhiệm Thẩm phán rất chung chung, không cụ thể và rõ ràng dẫn đến việc xem xét các căn cứ để cách chức, bãi nhiệm Thẩm phán khó tiên lượng và xác định mức độ cụ thể.
* Xem xét kỷ luật Thẩm phán
Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm Thẩm phán chỉ được thực hiện với lý do liên quan tới năng lực hạn chế hoặc hành vi không thích hợp của Thẩm phán khiến họ không còn xứng đáng với vị trí Thẩm phán nữa. Việc kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều phải được quyết định dựa trên những cơ sở quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán. Các quyết định liên quan tới kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều có thể bị kháng cáo và được xem xét lại bởi một cơ quan độc lập. Nguyên tắc trên có thể không áp dụng đối với những quyết định của Tòa tối cao và/hoặc của cơ quan lập pháp theo thủ tục phế truất hoặc tương tự”[2]. Việc xem xét kỷ luật, bao gồm cả việc bãi nhiệm Thẩm phán, được thực hiện một cách công khai, minh bạch và khách quan dựa trên các cơ sở rõ ràng và cụ thể sẽ là một yếu tố cơ bản bảo đảm sự độc lập xét xử của Thẩm phán.
Ở Việt Nam, Thẩm phán là công chức, vì vậy, các quy định về xử lý kỷ luật công chức cũng được áp dụng đối với Thẩm phán. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, việc quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lao động Thẩm phán là lao động đặc thù. Bất kỳ quy định nào về xử lý kỷ luật được áp dụng đối với Thẩm phán đều phải được cân nhắc vì có thể nó “đe dọa” sự độc lập của Thẩm phán.
Trách nhiệm của Thẩm phán đối với phán quyết của mình là trách nhiệm phải giải trình cơ sở đưa ra phán quyết chứ không đồng nghĩa với việc quy định trách nhiệm phải chịu một hình thức kỷ luật trực tiếp hay gián tiếp đối với việc phán quyết của mình bị hủy hoặc bị sửa đổi bởi Tòa án cấp trên. Trách nhiệm giải trình về phán quyết của mình trước hết và quan trọng nhất là phải được thể hiện ngay tại phần nhận định về tình tiết của vụ việc và về cơ sở pháp lý (pháp luật áp dụng và tại sao áp dụng pháp luật cụ thể đó). Trách nhiệm giải trình này nhằm mục đích tránh tình trạng Thẩm phán đưa ra phán quyết một cách tùy tiện và không có cơ sở.
Về cơ chế xem xét kỷ luật Thẩm phán, trước hết cần phải thừa nhận, có sự khác biệt giữa công chức là Thẩm phán với các công chức khác trong bộ máy công quyền như hành pháp và lập pháp. Nếu các công chức khác thực thi nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc chế độ thủ trưởng và phải tuân thủ mệnh lệnh và chịu sự chỉ đạo của cấp trên thì Thẩm phán khi xét xử, như Lênin nói “không một ai là thủ trưởng của họ ngoài pháp luật”[3]. Vì vậy, Thẩm phán chỉ có thể bị xem xét kỷ luật khi họ vi phạm pháp luật mà sự vi phạm đó được coi là cơ sở để áp dụng hình thức kỷ luật. Về nguyên tắc, không thể không quy định chế tài áp dụng đối với những hành vi vi phạm của Thẩm phán mà sự vi phạm đó không thể chấp nhận đối với Thẩm phán khi duy trì công lý. Vấn đề là ở chỗ, cơ chế xem xét các vi phạm của Thẩm phán và áp dụng hình thức kỷ luật cần phải khách quan và minh bạch.
2.4. Lương và các chế độ bảo đảm khác
Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Pháp luật phải đảm bảo mức lương thỏa đáng cho Thẩm phán”[4]. Các quy tắc tối thiểu của IBA cũng quy định rằng: “Lương của Thẩm phán không thể bị cắt giảm trong thời gian đương chức, trừ trường hợp việc cắt giảm là một phần của biện pháp kinh tế công tổng thể”[5].
Mức lương chưa thỏa đáng cũng có thể làm giảm đi tính hấp dẫn của nghề Thẩm phán và khó có thể thu hút được các luật sư và các chuyên gia pháp luật có năng lực. Có ý kiến cho rằng, lý do chính của việc trả lương thấp cho Thẩm phán là do thiếu kinh phí. Lý do này có thể dễ hiểu, tuy nhiên việc đánh giá không đúng tầm quan trọng của tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán mới là lý do chính. Đầu tư ngân sách để trả lương cho Thẩm phán một cách thỏa đáng sẽ mang lại lợi ích chiến lược và giá trị vô hình rất lớn, mặc dù điều đó khó có thể cân đo, đong, đếm được như những khoản đầu tư khác. Nạn tham nhũng hay hoạt động thiếu hiệu quả của hệ thống tư pháp còn gây ra tổn hại lớn hơn nhiều so với mức ngân sách mà Chính phủ bỏ ra để trả lương thỏa đáng cho Thẩm phán.
Ở Việt Nam, theo các quy định hiện hành về tiền lương, thì mức lương trung bình của Thẩm phán Tòa án cấp huyện (Thẩm phán sơ cấp) hàng tháng là trên dưới 3 triệu đồng; Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh (Thẩm phán trung cấp) hàng tháng là trên dưới 4 triệu đồng và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hàng tháng là trên dưới 6 triệu đồng, ngoài ra không có chế độ hoặc đặc quyền, đặc lợi nào khác. Với mức lương thấp như vậy, Thẩm phán khó có thể bảo đảm được cuộc sống hàng ngày và khó có thể tránh được những cám dỗ vật chất từ phía khách quan trong khi xét xử. Vì vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu nghiêm túc về chế độ tiền lương cho Thẩm phán hiện nay. Nếu mức lương của Thẩm phán chưa hợp lý, thì đó cũng là lực cản khá lớn, ảnh hưởng đến việc bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán.
2.5. Yêu cầu về tính khách quan vô tư của Thẩm phán
Việc quy định các quy tắc đạo đức nghề nghiệp sẽ bảo đảm cho Thẩm phán xét xử khách quan và vô tư. Sự khách quan và vô tư khi xét xử chính là sự độc lập của Thẩm phán với chính mình. Khách quan, vô tư là một đòi hỏi không chỉ riêng đối với các chủ thể của Tư pháp, mà nó còn là đòi hỏi đối với cả Lập pháp và Hành pháp khi thực hiện quyền lực công. Tuy nhiên, khái niệm khách quan, vô tư thông thường được hiểu khi nói đến trách nhiệm chủ quan của các chủ thể thực thi quyền lực công – theo đó, họ hành động không nhằm mục đích tư lợi, trong khi khái niệm độc lập được hiểu khi nói đến trách nhiệm không được can thiệp và không bị can thiệp. Vai trò độc lập mà Thẩm phán có được để bảo vệ lẽ phải chỉ có ý nghĩa khi họ phải là người khách quan vô tư. Nếu không xét xử một cách khách quan vô tư thì khi đó sự độc lập của Thẩm phán sẽ trở thành thảm họa cho tất cả các bên đương sự trong vụ án và sẽ hủy hoại Nhà nước pháp quyền.
Như vậy, một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán với chính mình (sự khách quan vô tư khi giải quyết vụ án) là cần phải bảo đảm sự khách quan và vô tư của Thẩm phán trong toàn bộ quá trình xét xử. Và để đạt được điều đó thì cần phải có bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán nhằm định hướng hành vi ứng xử của Thẩm phán.
2.6. Trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán và trách nhiệm bồi thường nhà nước khi có hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ
Lý do xác định chế độ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán là xu thế tất yếu hiện nay của pháp luật nhiều quốc gia và được thừa nhận chung là cần thiết và phải được song hành với việc đảm bảo độc lập xét xử.
Ở Việt Nam, theo khoản 4 Điều 37 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân gây ra thiệt hại có trách nhiệm hoàn trả số tiền bồi thường cho Tòa án. Thẩm phán cũng có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật hay trách nhiệm hình sự nếu ra bản án trái pháp luật. Trước khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra có quy trách nhiệm cho Tòa án phải bồi thường trong cả những trường hợp không phải do lỗi cố ý và Thẩm phán có trách nhiệm bồi hoàn cả khi vô ý ra bản án kết tội người vô tội.
Sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, các trường hợp Tòa án phải bồi thường do gây oan sai trong hoạt động tố tụng được quy định rõ ràng hơn, cụ thể: Tòa án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt độngtố tụng hình sự (Điều 32); trong hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính (Điều 33).
Theo Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 và Điều 16 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/03/2010 của Chính phủ thì trường hợp Thẩm phán, cán bộ Tòa án cố ỷa bản án hình sự oan thì phải hoàn trả cho Tòa án khoản tiền mà Tòa án đã bồi thường cho người bị xử oan, như tối đa không quá 36 tháng lương của người phải bị bồi hoàn. Trường hợp trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính cũng được áp dụng tương tự tố tụng hình sự, riêng trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật thì phải bồi hoàn không quá 3 tháng lương của người bị bồi hoàn.
Có thể nói, trách nhiệm bồi hoàn của Thẩm phán khi xét xử oan sai theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh việc gia tăng trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán trong trường hợp ra các bản án oan sai, thì vẫn chưa có những quy định về việc Tòa án và Thẩm phán phải giải trình vì lý do oan sai, chưa quy định rõ các biện pháp để công chúng có thể giám sát các hoạt động của Tòa án và Thẩm phán. Cho nên, cần phải có các nghiên cứu và quy định các biện pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.
3. Đánh giá thực trạng bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán ở Việt Nam và một số kiến nghị
So với các nước phát triển, ở Việt Nam, người dân ít được hưởng những thành quả của một nền tư pháp độc lập, vì vậy, việc bảo đảm sự độc lập của Tòa án, đặc biệt là sự độc lập của Thẩm phán là chưa hiệu quả. Bởi lẽ, sự độc lập thực sự của Tòa án về nguyên tắc chỉ có thể trong bối cảnh có sự phân quyền rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.Về hình thức, tính độc lập của Tòa án, của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp, trong hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và trong các văn bản pháp luật về tố tụng từ trước tới nay, tuy nhiên, trên thực tế, tính độc lập của hệ thống Tòa án và các Thẩm phán ở Việt Nam chưa được bảo đảm đúng như các tiêu chuẩn chung trên thế giới.
Nhìn lại thực trạng hoạt động của hệ thống Tòa án và các cơ quan tư pháp của Việt Nam nói chung, mặc dù đã có những thành tựu rất đáng kể, góp phần không nhỏ trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, nhưng thực tiễn cuộc sống cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Hoạt động tư pháp của Việt Nam không chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan xét xử, mà còn cả hoạt động của các cơ quan điều tra, công tố và những cơ quan hoạt động hỗ trợ tư pháp khác như: Công chứng, giám định, luật sư… Điều này chứng tỏ chúng ta chưa có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp.
Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của Toà án và các Thẩm phán đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa được thực sự tôn trọng và tuân thủ, bởi lẽ, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo theo nguyên tắc tập quyền. Nguyên tắc tập quyền này khó có thể là cơ sở cho sự độc lập của Tòa án và các Thẩm phán bởi nó dẫn đến việc xét xử và ra các bản án, quyết định của Tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn và can thiệp của các cơ quan nhà nước khác. Hơn thế nữa, quá trình xét xử của các Tòa ánở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng theo nguyên tắc thẩm vấn, xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu. Thực tế cho thấy, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử.
Kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án ở nước ta hiện vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào các Tòa án cấp trên. Tình trạng này khiến cho các Tòa án khó tránh khỏi sự tác động của các cơ quan nhà nước khác, cũng như khiến cho các Tòa án cấp dưới khó duy trì sự độc lập xét xử với Tòa án cấp trên.
Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta hiện dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng, trong khi lẽ ra cần nhấn mạnh các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Nước ta hiện vẫn áp dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo định kỳ. Các Thẩm phán, mặc dù mức lương có cao hơn so với mức lương chung của các ngành khác, song vẫn thấp so với nhu cầu bảo đảm đời sống và tích lũy cho họ và gia đình. Đây cũng là những yếu tố mà theo kinh nghiệm quốc tế thường có ảnh hưởng lớn đến tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.
Mặc dù ở nước ta, việc phân công Thẩm phán xét xử các vụ việc về nguyên tắc là vấn đề nội bộ quản lý của các Tòa án, tuy nhiên, trong thực tế nguyên tắc này không phải lúc nào cũng được tôn trọng. Trong hoạt động của các Tòa án, một số quy tắc “bất thành văn” như báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án… vẫn được áp dụng một cách phổ biến, rõ ràng mâu thuẫn với những nguyên tắc và yêu cầu về tính độc lập của Tòa án và của Thẩm phán.
Pháp luật nước ta chưa có những quy định cụ thể về việc giữ bí mật nghề nghiệp và quyền miễn trừ của Thẩm phán. Điều này có thể gây rủi ro cho các Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp và ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của họ. Đây cũng là sự bất cập của pháp luật nước ta so với các quy định có liên quan của pháp luật quốc tế. Bởi vậy, muốn cho Tòa án và các Thẩm phán được độc lập trong quá trình xét xử, thì một mặt, cần cụ thể hóa các nguyên tắc đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, mặt khác, cần cụ thể hóa và tôn trọng thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn bằng cách đánh giá đúng vai trò của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án và các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập và khách quan và không bị bất kỳ sự can thiệp nào.
Với điều kiện nước ta hiện nay, có lẽ trước hết, cần phải nghiên cứu để cụ thể hóa các nguyên tắc về Tòa án và Thẩm phán độc lập trong quá trình xét xử, đồng thời, tìm ra những biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc độc lập được thực hiện trên thực tế. Nghiên cứu và thay đổi các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác… của hệ thống Tòa án để giảm thiểu sự can thiệp, tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, của các chủ thể bên ngoài, qua đó bảo đảm tính độc lập thực sự của Tòa án.
– Cần nghiên cứu để khẳng định Tòa án là cơquan bảo vệ công lý thay bằng, hay đồng thời với việc coi đó là cơ quan xét xử. Chuyển phương thức xét xử từ tố tụng buộc tội sang tố tụng tranh tụng.
– Cần có những giải pháp hiệu quả về kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm các Tòa án không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nào, kể cả vào các Tòa án cấp trên, về kinh phí hoạt động. Ở nhiều quốc gia, pháp luật quy định một tỷ lệ phần trăm nhất định ngân sách nhà nước hay ngân sách địa phương đương nhiên phải phân bổ cho hoạt động của Tòa án; điều này giúp các Tòa án không bị ràng buộc bởi cơ chế “xin-cho” kinh phí, từ đó không phải phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước khác hay vào Tòa án cấp trên. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt với nước ta.
– Cần nghiên cứu một số biện pháp đểđảm bảo cho độc lập của Thẩm phán như: Tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, Đảm bảo Thẩm phán có nhiệm kỳ vững chắc và lâu dài, Chế độ lương bổng cho Thẩm phán phải được bảo đảm, Bảo đảm một số điều kiện làm việc khác cho Thẩm phán.
TS. Đặng Vũ Huân & PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh
Tài liệu tham khảo:
1. TS.LS. Lưu Tiến Dũng, Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2012.
2. “Tổng quan về nguyên tắc độc lập của quyền tư pháp trong các điều ước quốc tế và Hiến pháp một số nước”, Tài liệu của Trung taam Thông tin thuộc Văn phòng Quốc hội.
3. Tòa án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.
4. Vũ Thị Ngọc Hà, Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử ở Việt Nam, đăng tải trên trang web http://www.hcmcbar.org;
5. Nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đăng trải trên trang web http://www.khotailieu.com;
6. Hải An, Quy định rõ ràng và cụ thể tiêu chuẩn pháp lý của Hội thẩm nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.daibieunhandan.vn;
7. Trương Hòa Bình, Một số vấn đề về chế định hội thẩm nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.
8. Trần Văn Tú, Quy định của Hiến pháp về Tòa án nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.
9. Nguyễn Thị Hồng, Bảo đảm độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền – Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (272) tháng 8 năm 2014.
[1]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary, pp. 12, 18.
[2]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary, pp. 12, 18.
[3]Lênin toàn tập (1997), tập 36, Nxb. Tiến bộ Matxcơva (Tiếng Việt), tr.67.
[4]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary.
[5]Điều 15.b, IBA Minimum Standards of Judicial Independence (1982).
Tham khảo thêm:
- Những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
- Những đặc trưng của nghề thừa phát lại
- Hoàn thiện chế định loại từ trách nhiệm hình sự
- Vị trí chiến lược của Biển Đông và vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông
- Từ Tuyên bố Cebu năm 2007 đến Văn kiện khung ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di trú
- Một số vấn đề pháp lý khi xem xét gia nhập Công ước về quy chế người không quốc tịch năm 1954
- Vấn đề xác định cha, mẹ, con và mang thai hộ theo Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi
- Đặc trưng của các biện pháp cưỡng chế hành chính theo pháp luật Việt Nam
- Hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba theo pháp luật dân sự hiện hành
- Vấn đề bảo đảm quyền con người trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi