Kỹ năng xác định tội danh trong vụ án hình sự

Xác định tội danh, vấn đề lý luận và thực tiễn mà chúng tôi đề cập trong bài viết này không phải là mới, nhưng đối với người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động tố tụng hình sự lại là vấn đề thời sự được quan tâm hàng ngày. Vì có xác định tội danh đúng thì mới áp dụng pháp luật hình sự đúng, ra bản án mới đúng pháp luật, người phạm tội mới chấp nhận bản án, cúi đầu nhận tội và mới đạt được yêu cầu của việc xử án là xét xử đúng người, đúng tội.

Bài viết này tập trung trao đổi về kỹ năng, quy trình (các bước) xác định tội danh và một số vấn đề trong thực tiễn hoạt động xác định tội danh.

1. Kỹ năng xác định tội danh

Bước 1: Xác định tội phạm

Trong đời sống xã hội có nhiều người có hành vi gây nguy hại cho xã hội, nhưng không phải tất cả các hành vi gây nguy hại cho xã hội đều là tội phạm. Trong Bộ luật Hình sự (xin viết tắt là BLHS) hiện hành có quy định, có hành vi tuy có gây nguy hại cho xã hội nhưng không phải là tội phạm như là: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự); hoặc là hành vi phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm (quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự); hoặc là hành vi trong tình thế cấp thiết vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ tới lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa (quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự). Ví dụ, một tàu thuỷ chuyên chở 100 tấn gạo từ miền Nam ra miền Bắc, với trọng lượng tàu biển và trọng lượng 100 tấn gạo thì tàu thuỷ chỉ có thể chịu đựng được gió cấp 5. Trên đường đi gặp mưa, bão gió trên cấp 5, vì muốn bảo vệ con tàu mà các thuỷ thủ trên tàu, thuyền trưởng nhận định nếu con tàu giảm trọng tải 15 tấn thì vượt qua được gió bão cấp 6, cấp 7, còn nếu giữ nguyên 100 tấn gạo thì có nguy cơ tàu thuỷ bị chìm vì gió cấp 6, cấp 7 nên thuyền trưởng quyết định, vứt bỏ 15 tấn gạo xuống biển. Kết quả là con tàu vượt qua được cơn bão có gió cấp 6, 7. Trường hợp này thiệt hại 15 tấn gạo là nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn, đó là con tàu, cùng đoàn thuỷ thủ và 85 tấn gạo.v.v. Trong BLHS còn có quy định khác để làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi gây nguy hại cho xã hội là tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 12 BLHS quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

“1- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2- Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Như vậy, ngoài các trường hợp mà BLHS quy định không phải là tội phạm và tuổi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi gây nguy hại cho xã hội đó là bị coi là tội phạm, thì họ phải chịu hình phạt của Nhà nước đối với hành vi gây nguy hại cho xã hội mà họ đã gây ra.

Tội phạm là gì? Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.

Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự về khái niệm tội phạm mà chúng tôi trình bày ở trên, thì chúng ta hiểu là: Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự mà thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi nguy hiểm cho xã hội đó xâm phạm đến một trong các quan hệ xã hội quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự thì hành vi nguy hiểm đó là tội phạm.

Đã từ lâu, các nhà khoa học về tội phạm học, cùng các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã xác định được các căn cứ để xác định tội phạm hay còn gọi là các yếu tố cấu thành tội phạm hoặc là các cấu thành bắt buộc của tội phạm. Các yếu tố cấu thành đó là:

Một là, mặt chủ thể của tội phạm: Là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và là người có năng lực trách nhiệm hình sự.

Hai là, mặt chủ quan của tội phạm: Là động cơ, mục đích thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Và là lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý)

Ba là, mặt khách thể của tội phạm: Là quan hệ xã hội mà Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ.

Bốn là, mặt khách quan của tội phạm: Là các hành vi của chủ thể, biểu hiện ra bên ngoài trong quá trình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Các hành vi này, có thể là bằng hành động nhưng cũng có thể là bằng không hành động.

Phải có đủ bốn yếu tố này mới cấu thành tội phạm. Thiếu một trong bốn yếu tố này, thì không phải là tội phạm. Do đó, chúng ta thấy rằng:

+ Những hành vi có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm.

+ Những tội phạm được quy định trong các điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự được gọi là tội.

+ Người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Bước 2: Đối chiếu hành vi của bị cáo bị truy tố với dấu hiệu cấu thành của tội bị truy tố.

Nghiên cứu nội dung các điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, chúng ta thấy trong từng điều luật có quy định rõ các cấu thành của tội trong điều luật đó. Các cấu thành này, tạo nên sự khác biệt giữa tội này với tội khác. Ví dụ: Tội “giết con mới đẻ”. Điều 94 Bộ luật Hình sự quy định các cấu thành của tội “giết con mới đẻ” như sau:

+ Người mẹ nào

+ Do ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt

+ Mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó

+ Hậu quả là đứa trẻ chết

Như vậy là, tội “giết con mới đẻ” có 4 cấu thành bắt buộc, trong đó chủ thể của tội này bắt buộc phải là người mẹ sinh ra đứa trẻ đó. Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu có thể là trường hợp không có chồng mà mang thai rồi đẻ con hoặc là đẻ nhiều con gái, mà nhà chồng cho rằng đẻ con gái là đem tai hoạ về nhà chồng.v.v. mà người mẹ của đứa trẻ đó, không chịu đựng nổi dư luận xã hội hoặc sức ép tâm lý của nhà chồng… Hoàn cảnh khách quan đặc biệt có thể là trường hợp đứa trẻ có dị dạng… Hành vi khách quan của người mẹ là giết con hoặc vứt bỏ đứa con đó ở nơi kín đáo làm đứa con chết…

Con mới đẻ là trường hợp đứa trẻ mới sinh ra trong bày ngày tuổi (ý kiến của cơ quan y tế, được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 26/11/1986).

Do đó, trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “giết con mới đẻ” thì Thẩm phán được phân công là Chủ toạ phiên toà phải đối chiếu bị cáo và các hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, có trùng hợp với các cấu thành của tội “giết con mới đẻ” mà chúng tôi đã trình bày ở trên hay không. Nếu bị cáo và các hành vi bị truy tố trùng hợp với các cấu thành của tội “giết con mới đẻ” quy định tại Điều 94 Bộ luật Hình sự, thì chấp nhận tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo và chấp nhận điều luật áp dụng của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Còn nếu, có một cấu thành của tội “giết con mới đẻ” mà khác với bị cáo bị truy tố hoặc khác với một trong các hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, thì người bị truy tố không phạm vào tội “giết con mới đẻ” quy định tại Điều 94 Bộ luật Hình sự mà là phạm vào một tội khác. Ví dụ: Bị cáo không phải là người mẹ đẻ ra đứa trẻ bị giết, hoặc bị cáo là người mẹ đẻ ra đứa trẻ bị giết nhưng đứa trẻ bị giết đã 9 hoặc 10 ngày tuổi, thì bị cáo không phạm vào tội “giết con mới đẻ” mà phạm vào tội “giết người” quy định tại Điều 93 Bộ luật Hình sự.

Tóm lại, việc xác định tội danh tiến hành theo hai bước mà chúng tôi trình bày ở trên là phù hợp với lý luận ở chỗ căn cứ vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và phù hợp với thực tiễn ở chỗ là đối chiếu các cấu thành của tội mà Viện kiểm sát truy tố với bị cáo và các hành vi vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát truy tố có trùng hợp với nhau hay không. Nếu trùng hợp thì chấp nhận tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, nếu không trùng hợp thì cần phải làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật bị truy tố là phạm vào tội nào. Có như vậy xác định tội danh mới đúng.

2. Những vấn đề trong thực tế về xác định tội danh

Căn cứ vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và các cấu thành của từng tội quy định tại từng điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS cũng như trong thực tế đấu tranh chống tội phạm ở nước ta cho thấy, có nhiều trường hợp mà người có hành vi vi phạm giống nhau, nhưng việc xác định tội danh lại hoàn toàn khác nhau. Ví dụ: A và B đều có hành vi để chất ma tuý trong người (lượng chất ma tuý đủ để truy tố), cùng tham gia giao thông, cùng bị bắt giữ, sau đó A bị truy tố về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”, còn B bị truy tố về tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý”. Những trường hợp như thế này, thì căn cứ vào đâu để xác định tội danh khác nhau? Chúng tôi xác định là: căn cứ vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm mà chúng ta có thể nhận thấy rằng: Trường hợp, mặt chủ thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm và mặt khách thể của tội phạm là giống nhau, nhưng mặt chủ quan của tội phạm khác nhau, thì tội danh khác nhau. Trở lại ví dụ nêu ở trên, tuy A và B cùng có hành vi để chất ma tuý trong người, cùng tham gia giao thông, cùng bị bắt giữ, nhưng mục đích, động cơ (mặt chủ quan của tội phạm) để chất ma tuý trong người của A là khác với B ở chỗ: đối với A là nhằm mục đích để bán chất ma tuý, còn đối với B là nhằm mục đích giao ma tuý cho người khác để được trả công. Do đó, tội danh đối với A là tội “mua bán trái phép chất ma tuý”, còn tội danh đối với B là tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý” và như vậy là đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm của từng tội.

Do đó, đối với trường hợp mà người có hành vi vi phạm pháp luật bị truy tố trước Toà án là giống nhau, thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại phiên toà cần phải làm rõ động cơ, mục đích của người khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đó là để làm gì? Có như vậy mới không mắc sai lầm trong việc xác định tội danh.

Tuy nhiên, trong thực tế còn có trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật giống nhau, động cơ mục đích khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật giống nhau, khách thể của tội phạm cũng giống nhau, nhưng việc xác định tội danh lại khác nhau.

Ví dụ: Vụ án thứ nhất: Vụ Nguyễn Trọng T. Toà án tỉnh H xét xử sơ thẩm tại bản án số 254/2009/HSST ngày 21/7/2009. Tóm tắt nội dung vụ án như sau: T quen biết các cháu Trần Minh Đ và Trần Thành C (người bị giết chết sinh năm 1996) và quen biết cha mẹ các cháu Đ và C. Đầu tháng 1/2009, T có ý định bắt cóc cháu Đ để tống tiền cha mẹ cháu Đ, lấy tiền tiêu Tết âm lịch Kỷ Sửu.

Chiều ngày 7/01/2009, T gặp cháu Đ đi xe đạp, T định hỏi cháu Đ xin đi nhờ xe đạp với mục đích rủ cháu Đ đến chỗ vắng để thực hiện mục đích tống tiền, nhưng xe đạp của cháu Đ không có đèo hàng phía sau nên T không thực hiện ý định phạm tội. Sau đó, T gặp C đi học về bằng xe đạp, T biết gia đình cháu C kinh tế khá giả nên T thay đổi ý định là sẽ bắt cóc cháu C.

 

Khoảng 17 giờ ngày 9/01/2009, T chờ sẵn ở cổng trường học của cháu C, lúc cháu C từ cổng trường đi ra, T rủ cháu C đi thả diều, cháu C đồng ý, T dùng xe đạp của cháu C chở cháu C đi ra bãi ngô bên bờ sông chơi đến hơn 19 giờ, lúc này trời chạng vạng tối, không có người qua lại, T bất ngờ bẻ quặt hai tay cháu C ra sau lưng, dúi người xuống đất, T dùng đầu gối đè lên tay cháu C sau đó T nhặt được thanh gỗ ở gần đó đập liên tiếp vào gáy cháu C, cháu C đau đớn giãy giụa và nói “mày, mày, mày…” sợ bị lộ, T bóp chặt cổ cháu C, thấy cháu C không cử động, T mới bỏ tay ra rồi lục soát túi quần cháu C lấy được một điện thoại di động nhãn hiệu Motorola, sau đó ném xác cháu C xuống sông cùng thanh gỗ hung khí và chiếc ba lô đựng sách của cháu C để phi tang. T chiếm đoạt xe đạp đem bán được 540.000 đồng, dùng điện thoại di động chiếm đoạt được nhắn tin và gọi điện đến số máy di động của mẹ cháu C với nội dung như sau: Con trai là cháu C bị một đối tượng bắt cóc, phải đem 350 triệu đồng đến đặt tại một nơi do T quy định rồi đi về, thì sẽ thả cháu C, nếu không làm theo yêu cầu, thì sẽ giết cháu C (mặc dù T đã giết cháu C rồi), gia đình cháu C chấp nhận làm theo yêu cầu của T, T đứng gần điểm hẹn nhìn thấy bố cháu C để túi tiền tại nơi T quy định và đã đi xa, đến khoảng 3 giờ sáng hôm sau 10/01/2009, T lấy được túi tiền thì bị bắt cùng vật chứng là 148 triệu đồng.

 

Toà án tỉnh H đã kết án và xử phạt đối với Nguyễn Trọng T như sau: Tử hình về tội “Giết người”, 4 năm tù về tội “Cướp tài sản” (chiếc điện thoại di động và xe đạp), 6 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” (đối với số tiền 148 triệu đồng). Tổng hợp hình phạt đối với 3 tội mà T phải chấp hành là tử hình.

– Vụ án thứ hai: Vụ Phạm Đức B, Toà án tỉnh N xét xử sơ thẩm tại bản án số 75/2008/HSST ngày 31/7/2008. Tóm tắt nội dung vụ án như sau: B là thanh niên trẻ tuổi (sinh ngày 20/10/1989) lười học tập, lười lao động nhưng đua đòi, ham chơi. Để có tiền tiêu, B đã có hành vi: Vào chiều ngày 09/11/2007, cháu Nguyễn Tiến T (là người bị B giết chết, sinh ngày 24/11/2000) đi học về vào nhà B chơi, cùng xem phim với B, sau đó cháu T ra sân chơi với con chó con nhà B. Lúc này B thấy cháu T đang vui chơi với con chó. B đã lấy ruột dây phanh xe đạp (dây bằng kim loại) siết chặt vào cổ cháu T một lúc, làm cháu T nghẹt thở ngã xuống đất, B đưa cháu T vào trong nhà dùng dầu xoa bóp để cháu T hồi tỉnh nhưng cháu T đã chết, B lấy bông đặt gần mũi để kiểm tra xem đã chết hẳn chưa. Biết cháu T chết thật nên B lấy dây cao su buộc mũi, buộc chân, buộc tay cháu T đem dấu vào bụi chuối ở trong vườn, đến đêm khuya B buộc đá vào xác cháu T rồi vứt xuống ao để xoá dấu vết. Sáng hôm sau, ngày 10/11/2007, B gọi điện thoại cho mẹ cháu T nói là: Đến 11 giờ cùng ngày đem 50 triệu đồng đến điểm hẹn mà B quy định, thì được nhận lại cháu T (mặc dù B đã giết chết cháu T từ chiều ngày hôm trước) mẹ cháu T chấp nhận điều kiện của B. Sau đó, B lại thay đổi địa điểm không giao tiền ở điểm đã hẹn mà để 50 triệu đồng vào thùng rác, buồng vệ sinh nữ tại siêu thị thành phố V, rồi đến cửa khách sạn P để nhận cháu T, B nhờ bạn nữ của B vào buồng vệ sinh nữ lấy tiền ở thùng rác giúp B. Khi bạn nữ của B đưa tiền cho B, thì bị bắt cùng vật chứng là 50 triệu đồng.

Toà án tỉnh N đã tuyên xử phạt đối với Phạm Đức B như sau: Tử hình về tội “Giết người”, 5 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (đối với số tiền 50 triệu đồng). Tổng hợp hình phạt đối với 2 tội mà B phải chấp hành là tử hình.

Hai vụ án này, Toà án cấp phúc thẩm đã xét xử phúc thẩm. Kết quả là Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với Nguyễn Trọng T và đối với Phạm Đức B.

Vấn đề đặt ra trong hai vụ án này là: Sau khi giết người xong, T và B đều có hành vi là nói gian dối với cha mẹ người bị giết là các cháu C và T đều sống nhằm mục đích để cha mẹ người bị giết tin tưởng và đưa tiền theo yêu cầu của bị cáo. Tuy nhiên ở mỗi Toà án cấp sơ thẩm lại xác định tội danh khác nhau: Toà án tỉnh H xác định tội danh là tội “cưỡng đoạt tài sản”, còn Toà án tỉnh N xác tội danh là tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và trong hai bản án phúc thẩm đều xác định là: Toà án cấp sơ thẩm xét xử đúng người, đúng tội. Vậy thì, trong hai tội này, tội nào được xác định là đúng với lý luận về xác định tội danh và đúng với các cấu thành của tội mà Toà án đã kết tội.

 



Chúng tôi trở lại vấn đề căn bản của việc xác định tội danh để làm rõ tội nào là đúng và theo trình tự sau đây:

* Xác định có tội phạm về chiếm đoạt tài sản sau khi giết người không?

 

Chúng tôi khẳng định là có tội phạm xảy ra. Cụ thể như sau:

 

– Về mặt chủ thể của tội phạm: Các bị cáo T và B đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

 

– Về mặt chủ quan của tội phạm: Các bị cáo T và B đều có động cơ, mục đích là nhằm chiếm đoạt tài sản của cha, mẹ các cháu C và T.

 



– Về mặt khách thể của tội phạm: Các bị cáo T và B đều xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cha mẹ các cháu C và T mà Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ.

 



– Về mặt khách thể của tội phạm: Các bị cáo T và B đều có hành vi sau khi giết người xong, đã có lời nói gian dối với cha mẹ người bị giết chết (các cháu C và T) là các cháu C và T đều sống để cha mẹ người bị giết chết tin tưởng mà giao tài sản cho bị cáo và nhận con đem về.

 



* Đối chiếu các hành vi của bị cáo bị truy tố với các cấu thành của tội “Cưỡng đoạt tài sản” (đối với vụ án Nguyễn Trọng T).

 



Theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự, thì tội “cưỡng đoạt tài sản” có các cấu thành sau đây:

 



+ Người nào

 



+ Đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần người khác

 



+ Nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt…

 



Đối với Nguyễn Trọng T, bị truy tố về 3 tội, trong đó có tội “cưỡng đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 135 Bộ luật Hình sự. Đối chiếu các hành vi phạm tội của T mà Viện kiểm sát tỉnh H truy tố về tội “cưỡng đoạt tài sản” với các cấu thành của tội “cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên thì Nguyễn Trọng T có 2 cấu thành phù hợp với 2 cấu thành của tội quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự là:

 



Một là: Người nào: Người nào ở đây là chủ thể của tội phạm mà cụ thể là Nguyễn Trọng T. Đối với T đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (T sinh năm 1980, T phạm tội ngày 09/01/2009. Lúc này T đã 28 tuổi 9 ngày) và có năng lực trách nhiệm hình sự. Cụ thể là: T nhận thức được hành vi mà T phạm tội đối với người bị hại.

 



Hai là: Nhằm chiếm đoạt tài sản: Khi T thông báo cho cha mẹ cháu C thì T nói rõ là đem tiền đến điểm mà T quy định, thì sẽ nhận được con (cháu C).

 



Còn cấu thành thứ 3, quy định tại Điều 135 BLHS là “đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần người khác” thì không có. Cụ thể là: nếu cháu C còn sống, bị T nhốt giữ ở một nơi khác, mà T sử dụng cháu C để đe doạ, uy hiếp tinh thần đối với cha mẹ cháu C thì mới có căn cứ để xác định là T đe doạ uy hiếp tinh thần. Nhưng trong vụ án này, cháu C đã chết từ trước khi T liên hệ với cha mẹ cháu C. Trong bản án sơ thẩm (trang số 5) cũng xác định cháu C đã chết từ trước rồi. Bản án nhận định là: “Hậu quả cháu C bị chết đuối… Sau đó, T sử dụng chiếc ĐTDĐ lấy của cháu C nhắn tin đe doạ anh Trần Văn T và chị Vũ Thị T là bố mẹ của cháu C yêu cầu phải nộp 350.000.000 đồng, thì mới thả cháu C về (mặc dù T đã giết hại cháu C”… Lời nói của T lúc này với cha mẹ cháu C không phải là đe doạ mà là sự gian dối để người bị hại tin là thật. Như vậy là, về tội “cưỡng đoạt tài sản”, thì Nguyễn Trọng T không có đầy đủ 3 cấu thành mà kết án Nguyễn Trọng T về tội “cưỡng đoạt tài sản” là không đúng với tội mà Nguyễn Trọng T đã phạm phải.

 



* Đối chiếu các hành vi mà bị cáo bị truy tố với các cấu thành của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (đối với vụ án Phạm Đức B).

 



Theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự (hành vi phạm tội của B thực hiện vào ngày 09/11/2007) năm 1999 chưa sửa đổi bổ sung thì tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có cấu thành sau đây:

 



+ Người nào

 



+ Bằng thủ đoạn gian dối

 



+ Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc… thì bị phạt

 



Đối với Phạm Đức B, bị truy tố về 2 tội, trong đó có tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật Hình sự. Đối chiếu các hành vi phạm tội của B mà Viện kiểm sát tỉnh N truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với các cấu thành của tội“lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên, thì Phạm Đức B có cấu thành phù hợp với 3 cấu thành của tội quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự.

 



Một là: Người nào: Người nào ở đây là chủ thể của tội phạm, mà cụ thể là Phạm Đức B. Đối với B đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (B sinh ngày 20/10/1989, B phạm tội ngày 09/11/2007. Lúc này B đã 18 tuổi 20 ngày) và có năng lực trách nhiệm hình sự. Cụ thể là B nhận thức được hành vi mà B phạm tội đối với người bị hại.

 



Hai là: Chiếm đoạt tài sản của người khác: Cụ thể là B đã chiếm đoạt 50.000.000 đồng của cha mẹ cháu T và bị bắt ngay khi B chiếm đoạt số tiền này.

 



Ba là: Bằng thủ đoạn gian dối: Cụ thể là: Cháu T đã chết rồi nhưng B nói với cha mẹ cháu T là cháu T còn sống đang ở khách sạn P thành phố V. Lời nói này là thủ đoạn gian dối của B nhằm mục đích để cha mẹ cháu T tin là: Cháu T còn sống thật, có như vậy B mới chiếm đoạt được tài sản của cha mẹ cháu T.

 



Như vậy, các hành vi của B bị truy tố có đầy đủ các cấu thành của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự, Toà án tỉnh N kết án Phạm Đức B về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng tội mà B đã phạm phải. Về tội này của B trong bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân N nhận định như sau (trang 3) “B gọi điện cho chị H (mẹ cháu T) để trao đổi việc nhận tiền, B hướng dẫn cho chị H đi đến phòng vệ sinh nữ số 2 Siêu thị Intimex và bỏ tiền vào trong sọt rác. Chị H làm theo hướng dẫn của B, sau đó chị H đòi gặp cháu T, nhưng B nói dối T đang ở khách sạn P tại phòng 101 không gặp được và dập máy điện thoại…”.

 



Cũng trong thực tế có một số tội việc xác định tội danh hay bị sai là: Tội “cố ý gây thương tích” với tội “giết người”; tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tội “buôn lậu” với tội “vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới”; tội “cướp tài sản” với tội “cưỡng đoạt tài sản”.v.v.

 



Việc xác định tội danh trong vụ án hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn luôn luôn được sự quan tâm của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự mà trong những vụ án mà chúng tôi trình bày trên đây chỉ là ví dụ để minh họa trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, yêu cầu của công việc xét xử án hình sự là phải xét xử đúng người, đúng tội và việc xác định đúng người phạm tội, đúng tội đã phạm lại là trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự. Để đạt được yêu cầu này, thì vấn đề cơ bản là phải nắm vững nguyên tắc cơ bản về xác định tội danh.

Hoàng Văn Thành

TAND huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội

 

 
 

Tham khảo thêm:

1900.0191