Biện pháp bảo đảm thi hành án và thực tiễn áp dụng

Biện pháp bảo đảm thi hành án và thực tiễn áp dụng

23/01/2013

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự không ít người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành án thường không tự nguyện, có tâm lý chây ỳ, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định, nên hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn chặn các hành vi nêu trên của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án để đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong tổ chức thi hành án cũng gặp không ít khó khăn vướng mắc cần phải được tháo gỡ, vì đây là chế định mới trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

1. Biện pháp phong toả tài khoản

Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự”.

Việc “chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự” áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án. Như vậy, đây là quyền hoàn toàn chủ động của chấp hành viên trong việc phong toả tài khoản của người phải thi hành án và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình (trừ trường hợp đương sự yêu cầu) với một mục đích duy nhất là nhằm kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền dưới mọi hình thức trong tài khoản của người phải thi hành án. Về thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án để thi hành và không phải thông báo trước cho đương sự. Theo đó, sẽ hạn chế được việc người phải thi hành án tẩu tán số tiền đang có trong tài khoản. Có thể khẳng định rằng những quy định về biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản được quy định trong Luật Thi hành án dân sự rất tiến bộ, phù hợp với thực tiễn công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không quy định việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, nhưng tại Điều 11 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định “Quyết định phong tỏa tài khoản phải xác định số tiền bị phong tỏa”. Vì vậy, để xác định số tiền bị phong tỏa được chính xác, chấp hành viên cần phải tiến hành các hoạt động thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước. Thực tế, trong thời gian qua, đã xảy ra trường hợp chấp hành viên do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác, đầy đủ, đã vội vàng ra quyết định phong tỏa tài khoản không đúng đối tượng, dẫn đến việc người phải thi hành án có cơ hội đã rút hết tiền trong tài khoản của mình.

Việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có thể do người yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản thực hiện hoặc cũng có thể do chấp hành viên thực hiện. Thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có rất nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định người đó có tài khoản hay không có thể căn cứ vào một trong những yếu tố như: Lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của người phải thi hành án, các hợp đồng của người phải thi hành án với các đối tác, đăng ký kinh doanh… Chấp hành viên cũng có thể thông qua việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án kinh doanh thương mại hoặc thông qua người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Như vậy, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản được thực hiện theo quy định về cưỡng chế thi hành án trong Luật Thi hành án dân sự.

2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự, thì chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Có thể thấy, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ không chỉ là người phải thi hành án, mà cả người được thi hành án nếu họ đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án.

Các tài sản, giấy tờ tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: Giấy đăng ký xe môtô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên cần lưu ý nghiên cứu các tài sản không được kê biên theo qui định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự để cân nhắc khi tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự hoặc tài sản có giá trị tương với nghĩa vụ thi hành án theo Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP. Trong trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể yêu cầu lực lượng cảnh sát hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ giấy tờ, tài sản của người phải thi hành án. Như vậy, khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên không phải xác minh, mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về người phải thi hành án.

3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản

Biện pháp này là một trong ba biện pháp bảo đảm thi hành án mà chấp hành viên khi tổ chức thi hành án xét thấy cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Tài sản bị tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án. Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản mà việc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Vốn góp của tổ chức, cá nhân tại doanh nghiệp; quyền sử dụng đất; phương tiện xe cơ giới. Đối với những tài sản này, để thực hiện mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia quan hệ mua bán, chuyển nhượng phải thực hiện thông qua việc đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà… Quyền sở hữu, sử dụng của bên mua, bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Chính vì thế, trường hợp đương sự có hành vi chuyển dịch tài sản, để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, thì chấp hành viên ra quyết định đề nghị cơ quan có thẩm quyền đăng ký dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nhằm duy trì điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự có những thuận lợi và khó khăn cơ bản.

Những thuận lợi khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Một là, Luật Thi hành án dân sự đã bổ sung kịp thời quyền hạn cho các chấp hành viên trong việc tạm giữ giấy tờ, tài sản để đảm bảo thi hành án mà từ trước đến nay pháp luật còn đang bỏ ngỏ. Quy định này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và tạo hành lang pháp lý cho các chấp hành viên thực hiện, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả trong công tác thi hành án.

Hai là, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án được quy định trong Luật Thi hành án dân sự khá tinh gọn, nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho chấp hành viên có thể kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, đảm bảo cho cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành án trong những trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thi hành án, ngay cả trong trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu của tài sản, khi áp dụng biện pháp bảo đảm chấp hành viên không cần phải thông báo trước cho đương sự, tránh được việc đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Như vậy, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản có rất nhiều thuận lợi. Thứ nhất, khi xác minh được số dư trong tài khoản thì chấp hành viên có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản mà không cần phải xem xét việc thi hành án ở giai đoạn nào, có hết thời gian tự nguyện hay chưa. Mặt khác, đối với quyết định phong tỏa tài khoản này, chấp hành viên chỉ cần giao cho ngân hàng để thực hiện việc phong tỏa tài khoản mà không cần phải thông báo trước cho người phải thi hành án theo khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tránh được tình trạng người phải thi hành án tẩu tán tiền trong tài khoản. Thứ hai, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng biện pháp cưỡng chế này có rất nhiều thuận lợi như: Đã có sẵn tiền trong tài khoản, nên việc cưỡng chế diễn ra nhanh gọn về thủ tục, ít tồn thời gian và đạt hiệu quả cao.

Ba là, khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án chấp hành viên đã đánh vào đòn tâm lý của người phải thi hành án là ngại dư luận không tốt; sợ mất danh dự, uy tín của bản thân và gia đình, nên họ sẽ chọn phương thức tự nguyện thi hành án là tốt nhất.

Bốn là, khoản 2 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường” đề cao trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án trước pháp luật, theo hướng nếu yêu cầu của họ không đúng dẫn đến thiệt hại cho quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Một số khó khăn vướng mắc khi áp dụng các biện pháp bảo đảm

Trong quá trình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án bên cạnh những thuận lợi, còn có một số khó khăn cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn để việc thực hiện trên thực tế được thống nhất.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự chưa có quy định nào hướng dẫn thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Điều này sẽ dẫn đến việc áp dụng tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan và không thống nhất giữa các chấp hành viên, như vậy dễ dẫn đến việc khiếu nại của đương sự. Trong thực tiễn, có những trường hợp khi đương sự nộp đơn đề nghị cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm có thể chấp hành viên sẽ ra ngay quyết định áp dụng, nhưng cũng có thể vài ngày, thậm chí là lâu hơn chấp hành viên mới ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Việc chậm trễ này có thể ảnh hưởng đến kết quả tổ chức thi hành, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm do chấp hành viên ký trong trường hợp cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành án. Trường hợp đương sự có đơn yêu cầu thi hành án và kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thì tại thời điểm này ai sẽ là người ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Trường hợp này có hai hướng quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, thủ trưởng cơ quan thi hành án đồng thời cũng là chấp hành viên, do đó trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đồng thời là người ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, sau đó phân công cho chấp hành viên giải quyết việc thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án là do chấp hành viên trực tiếp giải quyết việc thi hành án ký, do đó, trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, sau đó phân công cho chấp hành viên giải quyết việc thi hành án. Chấp hành viên nào được phân công giải quyết hồ sơ thi hành án thì sẽ ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.

Khi áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản, việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án do người được thi hành án tiến hành xác minh gặp nhiều khó khăn do vướng phải các quy định về bảo mật thông tin khách hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước. Các tổ chức này sẽ viện dẫn các quy định tại Điều 17 và Điều 104 Luật các Tổ chức tín dụng để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án. Do đó, các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước lấy lý do đó không hợp tác trong việc cung cấp về thông tin cho người được khi hành án. Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 chỉ quy định về trách nhiệm của kho bạc, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự chứ không quy định chế tài xử lý khi các tổ chức này không thực hiện hết trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự có quy định việc chấp hành viên có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng trên thực tế thi hành nhiều trường hợp gặp khó khăn.

Mặc dù, Điều 11 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên theo quy định của Luật này”.

Ví dụ: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/DSST/2009 ngày 07/09/2009 của Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh NB về “Hợp đồng vay nợ” đã tuyên buộc bà Trần Thị Hải phải trả cho bà Nguyễn Thu Trang số tiền 20.000.000đ và lãi chậm thi hành án. Ngày 23/10/2009, Chi cục Thi hành án dân sự huyện YK nhận được đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ của bà Nguyễn Thu Trang, trong đơn yêu cầu thi hành án bà Trang cho biết hiện nay bà Trần Thị Hải đang sử dụng một chiếc xe máy hiệu Jupiter biển kiểm soát 35F-04546. Chi cục Thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên tổ chức thi hành. Chấp hành viên tiến hành tống đạt quyết định thi hành án và ấn định thời gian tự nguyện thi hành án theo đúng quy định. Khi đến làm việc với bà Hải tại nhà bà Hải, thì chấp hành viên phát hiện trong nhà bà Hải có chiếc xe máy đúng như bà Trang đã cung cấp. Chấp hành viên tiến hành lập biên bản tạm giữ ngay chiếc xe máy hiệu Jupiter biển kiểm soát 35F-04546. Trong quá trình lập biên bản tạm giữ tài sản, thì bà Hải cho rằng, chiếc xe máy này không phải của bà mà do người khác gửi, và chống đối việc tạm giữ tài sản của chấp hành viên. Chấp hành viên đã yêu cầu công an xã (được chấp hành viên mời đến làm việc) và trưởng thôn hỗ trợ để tạm giữ chiếc xe, nhưng công an xã không phối hợp với lý do họ không có trách nhiệm trong việc tạm giữ tài sản của đương sự, và không có chỉ đạo của cấp trên về việc tạm giữ trên.

Phân tích tình huống trên thấy rằng, mặc dù Luật trao quyền cho chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án tại bất cứ thời điểm nào của quá trình thi hành án, nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán hủy hoại tài sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ, chấp hành viên cần sự phối hợp của các cấp, ngành liên quan.

Việc thi hành phần nghĩa vụ của người phải thi hành án là phần vốn góp trong các tổ chức, doanh nghiệp thì thực tế còn nhiều khó khăn trong việc xác định quyền tài sản của người phải thi hành án và chấp hành viên còn e ngại khi xử lý quyền tài sản này vì không nhận được sự đồng thuận từ phía các tổ chức, doanh nghiệp do việc xử lý phần vốn góp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh cũng như làm thay đổiđiều lệ, cơ cấu nhân sự của tổ chức, doanh nghiệp.

Đối với trường hợp chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP đều chưa quy định trong trường hợp nào thì chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án. Như vậy, chấp hành viên có thể linh hoạt vận dụng và tham khảo theo quy định tại Điều 77 Luật Thi hành án dân sự để ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án.

Cần thắt chặt hơn nữa các chế tài đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc từ chối phối hợp thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên như: Phối hợp với các cơ quan chuyên môn để thiết lập nên các quy chế, chế định, chế tài để xử lý các hành vi làm cản trở đến công tác thực thi pháp luật thi hành án trên cơ sở tuân thủ Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Xuất phát từ những ưu điểm của các biện pháp bảo đảm trên, theo chúng tôi cần có hướng dẫn thống nhất, cụ thể hơn nữa để các chấp hành viên có cơ sở vững chắc trong việc áp dụng vào thực tiễn thi hành án.

Vũ Hòa

Tham khảo thêm:

1900.0191