Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra – Chương 2

CHƯƠNG 2

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

2.1 Chức năng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra

Theo quy định tại Điều 112 BLTTHS 2003, để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của mình, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

2.1.1 Khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.

Theo quy định tại điểm 1 Điều 112 BLTTHS 2003, một trong các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là khởi tố VAHS. Điều 104 BLTTHS quy định những trường hợp VKS ra quyết định khởi tố VAHS, đó là:

  • Khi thấy quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT, cơ quan khác của Công án nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, lực lượng Cảnh sát biển, đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan và cơ quan Kiểm lâm không có căn cứ, VKS hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án.
  • Khi Hội đồng xét xử yêu cầu VKS khởi tố vụ án.

Căn cứ để VKS tiến hành khởi tố VAHS là khi xác định có dấu hiệu tội phạm (Điều 100 BLTTHS). Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố VAHS, VKS phải gửi quyết định đó đến CQĐT để tiến hành điều tra.

Theo quy định tại Điều 108 BLTTHS và điểm b Khoản 2 Điều 12 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự, VKS còn có quyền ra quyết định không khởi tố VAHS nếu thấy yêu cầu khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử không có căn cứ. Căn cứ không khởi tố VAHS được quy định tại Điều 107 BLTTHS.

Vai trò của VKS trong việc khởi tố vụ án là rất quan trọng. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 104 BLTTHS, mọi quyết định khởi tố VAHS của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố chỉ thực sự có giá trị sau khi đã được VKS xem xét. Điều đó có nghĩa, việc khởi tố hay không khởi tố vụ án là do VKS quyết định.

Bên cạnh quyền khởi tố VAHS quy định tại Khoản 1 Điều 112 BLTTHS, VKS còn có quyền khởi tố bị can. Khởi tố bị can là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội và cần điều tra xem xét để truy cứu TNHS. BLTTHS phân định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm khởi tố bị can giữa CQĐT và VKS. Trách nhiệm khởi tố bị can chủ yếu thuộc về CQĐT. VKS chỉ ra quyết định khởi tố bị can sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố (Điều 126 BLTTHS).

–  Yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay đổi bổ sung quyết định khởi tố VAHS

Khoản 1 Điều 112 BLTTHS 2003 quy định khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền yêu cầu CQĐT thay đổi hoặc trực tiếp thay đổi quyết định khởi tố VAHS. Kèm theo đó, Khoản 1 Điều 106 BLTTHS 2003 quy định “khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác thì CQĐT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS”.

Sau khi khởi tố VAHS, CQĐT có điều kiện thu thập thêm nhiều chứng cứ, tài liệu giúp cho việc nhận thức, đánh giá về hành vi phạm tội đầy đủ và chính xác hơn. Những nhận thức, đánh giá ban đầu về tội phạm khi khởi tố vụ án nhiều khi không còn đúng với  hành vi phạm tội đã xảy ra hoặc phát hiện thêm tội phạm mới và khi đó quyết định khởi tố vụ án cần được thay đổi, bổ sung cho phù hợp. Sau khi CQĐT thay đổi bổ, sung quyết định khởi tố VAHS mà VKS nhận thấy quyết định này không có căn cứ thì VKS yêu cầu CQĐT quyết định hoặc trực tiếp ra quyết định hủy bỏ theo quy định tại Khoản 5 Điều 112 BLTTHS 2003. Riêng trong trường hợp có căn cứ thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS và VKS có văn bản yêu cầu CQĐT ra quyết định mà CQĐT không thực hiện, VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS. Trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định phải gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra theo đúng quy định tại Khoản 2 Điều 106 BLTTHS [25,tr.9].

– Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, thay đổi, bổ sung hoặc VKS trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, ngoài quyền yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS. VKS còn có quyền yêu cầu CQĐT khởi tố, thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên Đoạn 2 Khoản 5 Điều 126 quy định : “ Sau khi nhận được hồ sơ và kết luận điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa được khởi tố thì VKS ra quyết định khởi tố bị can”. Như vậy, theo quy định của BLTTHS hiện hành thì chỉ sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra thì vụ án đã chuyển sang giai đoạn truy tố mà không còn ở giai đoạn điều tra nữa. Do đó trong giai đoạn điều tra VAHS có thể hiểu là VKS không có thẩm quyền khởi tố bị can mà chỉ có quyền yêu cầu CQĐT khởi tố bị can.

Việc quy định VKS có quyền khởi tố bị can phù hợp với đòi hỏi thực tế khách quan của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì đây là những cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm mà việc khởi tố bị can không chỉ phục vụ cho việc làm rõ hành vi phạm tội mà còn có ý nghĩa ngăn chặn tội phạm, không cho phép họ tiếp tục phạm tội mới gây nguy hại cho xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải xem xét lại quy định ở Điều 126 BLTTHS nên quy định không chỉ sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra VKS mới có thẩm quyền này mà ngay trong giai đoạn điều tra VAHS sau khi yêu cầu CQĐT khởi tố bị can mà CQĐT không thực hiện yêu cầu thì VKS có thể trực tiếp khởi tố bị can.

Về nguyên tắc, CQĐT chỉ ra quyết định khởi tố bị can sau khi đã ra quyết định khởi tố VAHS. Trường hợp phạm tội quả tang mà người phạm tội có đầy đủ các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự thì quyết định khởi tố bị can ngay sau khi khởi tố vụ án (gần như cùng thời điểm). Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp ngay từ đầu CQĐT đều phát hiện được tất cả các tình tiết có liên quan đến hành vi phạm tội của bị can hoặc tất cả các tội phạm mà bị can đã thực hiện. Chính vì vậy trong quá trình điều tra VAHS nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc bị can còn có hành vi phạm tội khác thì CQĐT có quyền hoặc theo yêu cầu của VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.

Khoản 1 Điều 127 BLTTHS 2003 quy định : “Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc có hành vi phạm tội khác thì CQĐT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can”. Như vậy trong giai đoạn điều tra VAHS, VKS có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn có hành vi phạm tội khác. Quy định về các trường hợp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can là quy định mới của BLTTHS 2003 nhằm hạn chế việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, khẳng định quyền công tố của VKS trong hoạt động thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.

Thủ tục thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can được hướng dẫn khá chi tiết tại mục 11 thông tư 05/2005/TTLT–VKSNDTC–BCA–BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003. Theo đó quá trình điều tra VAHS, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cạn không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc bị can có hành vi phạm tội khác thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS cùng cấp có quyền ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can nhưng VKS chỉ thực hiện thẩm quyền này khi đã yêu cầu CQĐT mà CQĐT không thực hiện.

Trường hợp thay đổi quyết định khởi tố bị can thì phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố VAHS. Không thay đổi quyết định khởi tố bị can trong trường hợp điều tra xác định được hành vi của bị can phạm vào tội nặng hơn hoặc tội nhẹ hơn trong cùng một tội danh đã khởi tố đối với bị can.

CQĐT hoặc VKS ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can trong vụ án đã được khởi tố. Nếu bị can còn có hành vi phạm tội khác mà hành vi đó chưa được khởi tố vụ án thì phải quyết định khởi tố VAHS trước khi ra quyết định khởi tố bị can và xem xét nhập các vụ án để điều tra chung theo quy định tại Điều 117 BLTTHS 2003. Nếu trong quá trình điều tra VAHS mà xác định được bị can thực hiện hành vi phạm tội này là để thực hiện hành vi phạm tội khác thì ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố VAHS và ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can.

2.1.2 Đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu Cơ quan Điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra

Theo quy định tại Điều 13 Luật Tổ chức VKSND 2002, Điều 37 và Điều 112 BLTTHS năm 2003, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra. Như vậy có thể thấy đây là một quyền năng mà Nhà nước đã giao cho VKS trong quá trình thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra VAHS.

Về bản chất của quyền đề ra yêu cầu điều tra: Đề ra yêu cầu điều tra là việc VKS đưa ra các yêu cầu để đòi hỏi CQĐT làm rõ khi điều tra VAHS. Việc làm rõ các vấn đề được yêu cầu là cần thiết để giải quyết đúng đắn vụ án. Quyền đề ra yêu cầu điều tra của VKS không phải là một quyền hành chính (do hai cơ quan này không có quan hệ hành chính giữa cấp trên với cấp dưới) mà là quan hệ tố tụng hình sự. Điều đó đồng nghĩa với việc quyền hạn này chỉ phát sinh trong quan hệ giữa VKS với CQĐT trong quá trình giải quyết VAHS. Ngay sau khi vụ án được khởi tố, VKS có thể đề ra yêu cầu điều tra cho CQĐT để xác định chứng cứ về hành vi phạm tội của bị can hay mở rộng điều tra vụ án. CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của VKS.

–  Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra

Điều 19 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ–VKSNDTC ngày 2/1/2008 của Viện trưởng VKSNDTC quy định: “1. KSV chủ động trao đổi với ĐTV được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra. KSV có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói hoặc bằng văn bản trong quá trình trực tiếp kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với các trường hợp khác khi đề ra yêu cầu điều tra, KSV phải có văn bản yêu cầu điều tra, nêu rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS được quy định tại Điều 63 BLTTHS …”. Việc đề ra yêu cầu điều tra là một hoạt động tố tụng do VKS tiến hành khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nhằm làm rõ những vấn đề cần điều tra để thu thập, củng cố chứng cứ, hoàn thiện các thủ tục tố tụng bảo đảm cho việc điều tra, truy tố được toàn diện, khách quan và triệt để theo đúng quy định của pháp luật.

Việc đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra là một quyền năng quan trọng và cơ bản của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Thông qua hoạt động này, VKS thể hiện rõ quan điểm của mình trong việc thu thập, củng cố chứng cứ và hoàn thiện thủ tục tố tụng của một VAHS. Đó là quyền năng nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ trình độ, năng lực bám sát tiến độ điều tra, nắm chắc hồ sơ của KSV để đề ra được yêu cầu điều tra có chất lượng, giúp ích rất nhiều cho ĐTV nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và triệt để. Góp phần hạn chế oan sai hoặc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Ngược lại, nếu KSV không có trình độ năng lực, không nắm chắc tiến độ, nội dung vụ án thì chỉ đề ra những yêu cầu chung chung hoặc thậm chí nêu lên những yêu cầu không cần thiết khiến cho ĐTV không thể thực hiện được, làm ảnh hưởng  đến tiến độ và kết quả điều ra đối với vụ án. Từ phân tích trên cho thấy hoạt động yêu cầu điều tra có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là biểu hiện tập trung nhất của việc tăng cường trách nhiệm của KSV, gắn trách nhiệm của KSV với ĐTV trong điều tra vụ án.

Theo quy định tại Điều 114 BLTTHS 2003, CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của VKS. Tuy nhiên yêu cầu điều tra chỉ có tính chất “bắt buộc tương đối”. “Bắt buộc tương đối” ở đây có thể hiểu là nếu yêu cầu điều tra có chất lượng, nêu rõ được những vấn đề cần điều tra, thu thập để củng cố chứng cứ, hoàn thiện thủ tục tố tụng để xứ lý vụ án thì ĐTV bắt buộc phải thi hành. Trong trường hợp CQĐT có lý do cho rằng yêu cầu điều tra không cụ thể, hoặc những nội dung nêu ra không cần thiết thì không bắt buộc ĐTV phải thực hiện. Như vậy muốn cho bản yêu cầu điều ra được CQĐT thực hiện đòi hỏi nó phải có sự hợp lý, rõ ràng và chính xác.

– VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết

Nhằm đảm bảo cho VKS thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra cũng như đảm bảo cho VKS có thể nắm bắt được toàn bộ quá trình điều tra một cách cụ thể, kịp thời kiểm tra, củng cố chứng cứ phục vụ cho việc thực hiện chức năng của mình, BLTTHS quy định cho VKS có quyền trực tiếp tiến hành điều tra khi cần thiết:

   Theo hướng dẫn tại mục 14 Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT–VKSNDTC-BCA-BQP, VKS có thể trực tiếp hỏi cung bị can, khi  có yêu cầu của CQĐT hoặc qua kiểm sát việc hỏi cung phát hiện thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất; bị can có khiếu nại về điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực của lời khai bị can; trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì VKS có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, nếu có những nghi ngờ về tài liệu, chứng cứ hay những chứng cứ quan trọng của vụ án có những mâu thuẫn; thì VKS có thể trực tiếp hỏi cung bị can, KSV tiến hành hỏi cung bị can theo đúng quy định tại Điều 131 và Điều 132 BLTTHS.

Ngoài ra để bảo đảm việc xét phê chuẩn các quyết định của CQĐT, KSV còn có thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Việc triệu tập, lấy lời khai của những người này phải được tiến hành theo quy định tại các Điều 133, 135 và 136 BLTTHS. Nếu phát hiện thấy có mâu thuẫn trong lời khai của của những đối tượng trên, KSV phải yêu cầu ĐTV tiến hành đối chất. Việc này phải được thông báo trước với ĐTV và thực hiện đối chất phải theo đúng quy định tại Điều 138 BLTTHS.

Bên cạnh đó để phục vụ cho quá trình điều tra xác minh sự thật, xét thấy cần thực nghiệm điều tra để kiểm tra mâu thuẫn giữa lời khai của bị can, của những người tham gia tố tụng khác với thực tế khách quan thì VKS yêu cầu để CQĐT tiến hành thực nghiệm điều tra.

2.1.3 Yêu cầu thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

Khi tiến hành hoạt động TTHS, ĐTV đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật của vụ án, làm rõ những chứng cứ, xác định bị can có tội hoặc không có tội, những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của bị can. Theo Điều 30 Quyết định 07/2008/QĐ-VKSTV về ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự: “1. Khi thấy ĐTV thuộc một trong những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại Khoản 1 Điều 44 BLTTHS thì KSV có ý kiến để ĐTV từ chối tiến hành tố tụng hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV”. Nếu thấy không có căn cứ thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do để VKS cùng cấp biết.

Bên cạnh việc yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV, nếu hành vi của ĐTV bị thay đổi có dấu hiệu tội phạm thì VKS sẽ khởi tố về hình sự. Tuy nhiên, Điều 112 BLTTHS không quy định rõ VKS có thẩm quyền khởi tố VAHS hay khởi tố bị can.

2.1.4 Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn; quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định phải nêu rõ lý do;

Trong giai đoạn điều tra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động quan trọng góp phần đắc lực trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm cho việc điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm của CQĐT đạt hiệu quả, song cũng xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do của công dân. Do vậy, VKS phải nắm vững các căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi và huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS và các văn bản pháp luật khác. Đối với những biện pháp ngăn chặn cụ thể, có những căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền khác nhau; đối với từng vụ án lại có những yêu cầu khác nhau; đối với từng bị can lại có hoàn cảnh, nhân thân khác nhau, đòi hỏi VKS khi làm nhiệm vụ của mình phải nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, toàn diện trên cơ sở hồ sơ, tài liệu, chứng cứ để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định của CQĐT.

Đối với trường hợp bắt bị can để tạm giam: CQĐT sau khi có lệnh bắt bị can để tạm giam phải chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu và công văn đề nghị VKS phê chuẩn trước khi thi hành. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, nếu thấy việc bắt, tạm giam của CQĐT là có căn cứ và cần thiết thì VKS phê chuẩn lệnh bắt, tạm giam của CQĐT. Lệnh bắt, tạm giam của CQĐT chỉ được thực hiện sau khi có phê chuẩn của VKS cùng cấp. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, thấy lệnh bắt, tạm giam cùa CQĐT không có hoặc thiếu căn cứ thì VKS không phê chuẩn, trong trường hợp này, VKS phải nêu rõ lý do trong quyết định không phê chuẩn. Trong trường hợp thấy thiếu căn cứ thì VKS yêu cầu CQĐT tiếp tục xác minh, bổ sung chứng cứ để VKS tiếp tục xem xét việc có phê chuẩn hay không. Sự phê chuẩn của VKS là thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp về mặt nội dung cũng như hình thức của lệnh bắt. Từ đó đảm bảo hiệu lực của lệnh bắt.

Đối với những đối tượng đặc biệt (Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp…), VKS phải yêu cầu CQĐT, ngoài việc phải tuân thủ các quy định tại Điều 80, 81, 82 của BLTTHS, còn phải thực hiện các thủ tục khác được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật có liên quan như Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Đối với bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Do tính chất nghiêm trọng và cấp thiết của sự việc, nên Điều 81 BLTTHS quy định lệnh bắt khẩn cấp không cần phê chuẩn trước của VKS. Nhưng sau khi bắt người trong trường hợp này, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. VKS phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ để bắt khẩn cấp. Trong trường hợp cần thiết, VKS sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu có liên quan, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu VKS không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

Trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: CQĐT phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Đối với người bị truy nã, sau khi được thông báo, với các tài liệu liên quan, VKS phải khẩn trương nghiên cứu và ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.

Đối với quyết định tạm giữ và gia hạn tạm giữ: Theo quy định tại các Điều 86, 87 của BLTTHS thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi ngay cho VKS cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết và đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai, nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn [17,tr.20].

2.2.5 Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can

– VKS có thẩm quyền trong việc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng mà pháp luật quy định cho VKS. Nó thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, là phương tiện bảo đảm cho hoạt động điều tra phải tuân thủ theo pháp luật TTHS một cách triệt để, tránh sự tùy tiện, vô trách nhiệm. Ví dụ: hủy bỏ các quyết định trái pháp luật như quyết định khởi tố, không khởi tố VAHS, quyết định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, cần phải phân biệt hai trường hợp sau:

+ Nếu quyết định của CQĐT liên quan đến việc truy cứu TNHS của người phạm tội thì quyết định hủy bỏ của VKS là thực hành quyền công tố.

+ Nếu quyết định của CQĐT không liên quan đến việc truy cứu TNHS mà chỉ là các thủ tục tố tụng của VAHS thì quyết định hủy bỏ của VKS là kiểm sát các hoạt động tư pháp.[16,tr.15]

– Theo quy định tại Điều 161 BLTTHS thì thẩm quyền truy nã bị can thuộc về CQĐT nhằm tìm kiếm, xác định bị can đang ở đâu, bắt giữ những bị can đang lẩn trốn. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động điều tra được hiệu quả, khi xét thấy việc truy nã bị can là cần thiết, VKS có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã bị can.

2.2.6 Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án

– Theo quy định tại khoản 6 Điều 13 Luật tổ chức VKSND 2002. VKS có quyền : “Quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án”. Như vậy trong giai đoạn điều tra VAHS, VKS là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định việc xử lý vụ án. Khi hồ sơ vụ án đã được chuyển cho VKS để đề nghị truy tố thì VKS phải nghiêm cứu, xem xét về chứng cứ để quyết định truy tố (nếu đủ căn cứ), trả hồ sơ để điều tra bổ sung (nếu chưa đủ căn cứ cần điều tra thêm); đình chỉ hoặc tạm đình chỉ VAHS (nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 169 BLTTHS). Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án đối với từng loại tội phạm và ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của VKS trong giai đoạn truy tố được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 166 BLTTHS.

– Đối với quyền đình chỉ vụ án: Khi CQĐT đề nghị truy tố, nếu thấy có đủ căn cứ thì VKS ra quyết định truy tố bị can, nếu thấy có căn cứ đình chỉ thì ra quyết định đình chỉ vụ án. Đình chỉ vụ án là quyết định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can. Theo Khoản 1 Điều 169 BLTTHS, VKS ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS hoặc Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS.

– Tạm đình chỉ vụ án là tạm dừng việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can nhưng quyền công tố vẫn tiếp tục được duy trì. Khi không còn căn cứ tạm đình chỉ vụ án thì hoạt động tố tụng đối với vụ án được phục hồi. Theo Khoản 2 Điều 169 BLTTHS quy định những trường hợp VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong trường hợp: bị can mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y, bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can ở đâu.

Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của VKS cấp dưới phải đượcgửi lên VKS cấp trên. Nếu quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án của VKS cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp ra quyết định hủy bỏ các quyết định đó và yêu cầu VKS cấp dưới tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS.

Có thể thấy, trong giai đoạn điều tra mặc dù VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của mình một cách độc lập nhưng CQĐT vẫn là cơ quan đóng vai trò quan trọng nhất. Mọi hoạt động của KSV nhằm hỗ trợ cho CQĐT. Tuy nhiên đối với một số quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa mà điển hình là Cộng hòa Pháp và liên bang Đức, trong giai đoạn điều tra công tố viên đóng vai trò chủ đạo hay còn được gọi là “Điều tra viên trưởng”. Công tố viên có quyền chỉ đạo tất cả hoạt động của cảnh sát tư pháp. Điều 12 Luật TTHS Cộng hòa Pháp quy định: “Các sĩ quan, công chức và nhân viên cảnh sát tư pháp quy định trong thiên này thực hiện nhiệm vụ cảnh sát tư pháp dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng viện Công tố bên cạnh Tòa án sơ thẩm”[6]. Theo BLTTHS Liên bang Đức, việc xác minh các tình tiết để quyết định việc có khởi tố hay không một VAHS thuộc về Cơ quan Công tố. Điều 161 của luật này quy định “Để đạt được mục đich trên, Cơ quan Công tố có thể yêu cầu thông tin từ tất cả các cơ quan Nhà nước và có thể thực hiện tất cả các hoạt động điều tra, trực tiếp thông qua các cấp có thẩm quyền và nhân viên trong lực lượng cảnh sát. Cấp có thẩm quyền và nhân viên trong lực lượng cảnh sát có nghĩa vụ phải tuân thủ những yêu cầu hay mệnh lệnh của Cơ quan Công tố”.[5]

2.2 Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra

Căn cứ vào Điều 14 Luật tổ chức VKS, Điều 113 BLTTHS và Quyết định 07/2008/QĐ-VKSNDTC Ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự quy định khi thực hiện công tác kiểm sát trong giai đoạn điều tra (sau đây gọi là Quyết định 07/2008), VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

2.2.1 Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;

Khâu đầu tiên của công tác kiểm sát điều tra là kiểm sát việc khởi tố VAHS và khởi tố bị can. Điều này ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một hành vi phạm tội và người phạm tội có đúng hay không. Vì vậy khi nhận được quyết định khởi tố VAHS của CQĐT hoặc cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, quyết định khởi tố của Tòa án thì VKS phải kiểm tra tính có căn cứ của các quyết định khởi tố đó như xác định có hay không dấu hiệu tội phạm, việc xác định dấu hiệu tội phạm của cơ quan khởi tố có dựa trên cơ sở khởi tố do pháp luật quy định hay không. Đối với những vụ án mà pháp luật quy định chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại, phải kiểm tra xem người bị hại có yêu cầu không và việc yêu cầu đó có tự nguyện và đúng pháp luật không.

Chức năng kiểm sát của VKS trong khởi tố VAHS được thể hiện qua những hoạt động kiểm sát cụ thể và được pháp luật TTHS điều chỉnh. Đó là:

  • Kiểm sát việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm (Điều 103 BLTTHS). Theo Điều 10, Chương II Quyết định 07/2008 quy định KSV được phân công phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận của CQĐT cùng cấp đối với các tố giác, tin báo về tội phạm. Hằng tuần, KSC yêu cầu CQĐT cùng cấp thông báo đầy đủ cho VKS các tố giác và tin báo về tội phạm mà CQĐT tiếp nhận. Nếu phát hiện có tố giác, tin báo về tội phạm chưa được giải quyết theo thời hạn luật định thì yêu cầu CQĐT nêu rõ lý do, hướng giải quyết và thông báo cho VKS theo quy định tại Điều 103 BLTTHS;
  • Kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định không khởi tố VAHS, thay đổi bổ sung quyết định khởi tố vụ án (Điều 109 BLTTHS). Trong thời hạn ba ngày kể từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án của CQĐT hoặc cơ quan khác được giai tiến hành một số hoạt động điều tra, KSV được phân công phải tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố đó. Nếu thấy quyết định khởi tố có căn cứ và hợp pháp, VKS thông báo cho cơ quan khởi tố biết. Nếu chưa rõ căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ khởi tố. Trong trường hợp thấy quyết định khởi tố là không có căn cứ thì ra văn bản yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định hủy bỏ. Nếu cơ quan đã khởi tố không nhất trí thì báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS và điểm 7.1 mục 7 Thông tư liên ngành số 05/2005/TTLN-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003. Nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn tội phạm khác chưa được khởi tố, VKS yêu cầu cơ quan đã khởi tố thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố. Trường hợp nhận thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VSHA của cơ quan đã ra quyết định khởi tố không có căn cứ, VKS yêu cầu cơ quan đó ra quyết định hoặc trực tiếp hủy bỏ quyết định đó.

Sau khi vụ án được khởi tố, VKS tiếp tục thực hiện chức năng của mình là kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ của CQĐT. Theo Điều 10 BLTTHS thì CQĐT có quyền áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo hoạt động kiểm sát điều tra được thực hiện đó là:

  • Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi (Khoản 2 Điều 150 và Điều 151 BLTTHS). Điều 20 Chương IV Quyết định 07/2008 có hướng dẫn về việc kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. Theo đó yêu cầu KSV được phân công phải tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất cả vụ việc mà CQĐT tiến hành khám nghiệm. Đối với những vụ án gây hậu quả nghiêm trọng, phức tạp Viện trưởng, Phó Viện trưởng phải trực tiếp hoặc cùng KSV tiến hành kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Để việc tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường của KSV có hiệu quả đòi hỏi KSV phải chủ động nắm tình hình thông qua việc yêu cầu ĐTV thông báo về sự việc xảy ra. Từ đó có thể tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm cũng như chủ động yêu cầu ĐTV tiến hành khám nghiệm hiện trường. Tương tự như vậy, việc khám nghiệm tử thi của CQĐT cũng phải dưới sự kiểm sát của KSV;
  • Kiểm sát hoạt động bắt người trong trường hợp khẩn cấp, biện pháp tạm giữ, khám xét (Điều 81, 86 BLTTHS) và áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. Theo Điều 14 chương III- Quyết định 07/2008 quy định việc xét phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt trong trường hợp khẩn cấp, KSV thụ lý giải quyết vụ án phải tiến hành kiểm tra các tài liệu, chứng cứ chứng minh tính có căn cứ của việc bắt khẩn cấp trên cơ sở quy định của pháp luật. Nếu qua việc nghiên cứu hồ sơ, KSV nhận thấy có dấu hiệu lạm dụng việc bắt khẩn cấp, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rõ căn cứ để bắt khẩn cấp hay các chứng cứ có mâu thuẫn với nhau thì KSV phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt trước khi báo cáo với người có thẩm quyền ra quyết định phê chuẩn. Khi gặp hỏi người bị bắt, KSV phải thông báo cho CQĐT và phải lấp thành biên bản ghi lời khai của người bị bắt theo quy định của pháp luật. Quy định về kiểm sát tạm giữ, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam hay kiểm sát việc áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn khác cũng được ghi nhận cụ thể trong Chương III của Quyết định này;
  • Kiểm sát việc khởi tố bị can: Theo Điều 13 Chương II Quyết định 07/2008, sau khi nhận được quyết định khởi tố bị can của CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, KSV phải tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định khởi tố bị can. Nếu thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp, VKS ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và gửi cho cơ quan đã khởi tố. Nếu thấy chưa rõ căn cứ xác định bị can phạm tội thì VKS yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trường hợp thấy bị can đã bị khởi tố còn có người khác thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó. Trường hợp hết thời hạn tạm giữ mà không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Trong quá trình kiểm sát, nếu thấy hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm tội khác hoặc có hành vi phạm tội khác với tội danh đã khởi tố, VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can theo quy định tại Khoản 5 Điều 126 BLTTHS.

 Mục đích của quy định này nhằm đặt toàn bộ hoạt động điều tra của CQĐT dưới sự kiểm sát chặt chẽ của VKS. Kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra phải được tiến hành theo quy định của pháp luật TTHS, hoạt động thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ của CQĐT phải khách quan, kịp thời, đúng pháp luật và toàn diện. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi KSV được phân công kiểm sát điều tra vụ án phải chủ động bám sát hoạt động điều tra của CQĐT. Thực hiện việc kiểm sát trực tiếp từ việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các hoạt động khám xét; kiểm sát các biện bản hỏi cung bị can. Nếu thấy cần thiết thì KSV có thể tham gia vào các hoạt động này.

2.2.2 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;

Khi kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, KSV phải yêu cầu  ĐTV có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng theo quy định tại Chương IV BLTTHS. Việc giải thích nguyên nhân và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng được ghi vào biên bản. Trong quá trình điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì KSV yêu cầu ĐTV báo cáo Thủ trưởng,  Phó Thủ trưởng CQĐT yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

KSV phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của CQĐT trong các hoạt động như : Khi lấy lời khai của người làm chứng; người bị hại dưới 16 tuổi phải mời người giám hộ theo quy định tại các điều 133, 134,  135, 137 BLTTHS; việc khỏi cung bị can là người chưa thành niên phải thực hiện theo quy định tại Điều 306 BLTTHS; bảo đảm thực hiện các quyền của người bảo chữa như : người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu ĐTV đồng ý thì được hỏi cung người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác theo quy định tại Điều 58 BLTTHS. Trong quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra, KSV có thể triệu tập là và lấy lời khai của những người tham gia tố tụng để kiểm tra chứng cứ trong các trường hợp lời khai của họ có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập hoặc có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của họ. Nếu việc triệu tập để lấy lời khai thực hiện trước khi kết thúc điều tra thì KSV thông báo cho ĐTV thụ lý vụ án về thời gian, địa điểm tiến hành việc lấy lời khai của những người này trước khi lấy lời khai để phối hợp thực hiện.

 2.2.3 Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;

Thực tế điều tra VAHS có trường hợp xảy ra tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các CQĐT với nhau như: Thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ, thẩm quyền điều tra theo vụ việc, thẩm quyền điều tra của từng loại CQĐT, các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp mình, VKS yêu cầu CQĐT tiến hành các thủ tục để VKS cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền tiếp tục điều tra theo quy định tại Điều 116 BLTTHS. Nếu phải chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thì CQĐT cấp huyện, CQĐT cấp khu vực tiến hành các thủ tục để VKS  cấp huyện, VKS quân sự khu vực có văn bản đề nghị VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Nếu vụ án do CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân khu đề nghị chuyển thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được đề nghị chuyển vụ án của VKS cấp huyện, VKS quân sự khu vực hoặc của CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự cấp quân khu thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu phải ra quyết định chuyển vụ án.

2.2.4  Yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật khi tiến hành điều tra.

Trong quá trình kiểm sát các hoạt động điều tra, KSV phải kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật của CQĐT và của ĐTV. Các vi phạm trong quá trình điều tra vụ án được thể hiện dưới dạng khác nhau với nhiều tính chất khác nhau như: các quyết định khởi tố, không khởi tố VAHS, khởi tố bị can, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định khám xét, thu giữ vật chứng, có căn cứ hợp pháp hay có cần thiết không; các biện pháp điều tra khác như có đảm bảo các quy định của pháp luật không. Việc thu thập, bảo quản, đánh giá chứng cứ có khách quan không. Việc đề nghị truy tố người phạm tội về tội danh, điều luật, mức độ đã phù hợp với các chứng cứ trong vụ án và quy định của luật TTHS chưa.

Khi phát hiện các vi phạm thì VKS phải có văn bản yêu cầu CQĐT khắc phục ngay các vi phạm đó, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý ĐTV đã vi phạm pháp luật; nếu vi phạm đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì phải chuyển tài liệu cho CQĐT của VKSNDTC để xử lý theo thẩm quyền.

2.2.5 Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật

Trong quá trình tiến hành tố tụng, KSV có trách nhiệm phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. KSV phải phối hợp với CQĐT, với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để đề ra và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Đây là một hoạt động rất quan trọng của VKS trong việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm và tội phạm. Qua thực tế kiểm sát điều tra từng vụ án cụ thể, VKS sẽ có điều kiện để tìm ra nguyên nhân và tính chất của từng loại tội phạm với từng loại chủ thể của tội phạm. Từ đó sẽ rút ra được những quy luật khách quan và chủ quan của loại tội phạm và đề ra được những biện pháp hữu hiệu nhằn khắc phục, hạn chế sự gia tăng của tội phạm.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Qua nghiên cứu thực định pháp luật cho thấy pháp luật TTHS Việt Nam quy định rõ hai chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS: Chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hai chức năng này được thể hiện thông qua các nội dung hoạt động cụ thể của VKS được quy định tại Điều 112 và Điều 113 BLTTHS cũng như trong các văn bản pháp lý có liên quan.

Chức năng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS được thể hiện thông qua các hoạt động pháp lý độc lập, có liên quan trực tiếp đến tội phạm như: Khởi tố VAHS, yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS, đề ra yêu cầu điều tra và một số hoạt động khác.

Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS được thể hiện thông qua các hoạt động như: Kiểm sát việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm; kiểm sát quyết định khởi tố và không khởi tố VAHS; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;yêu cầu CQĐT khắc phục những vi phạm và kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp không làm cản trở hoạt động điều tra mà thông qua việc giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng giúp hạn chế những sai sót của CQĐT đồng thời giúp cho CQĐT xác minh sự thật, tạo cơ sở cho việc truy tố.

Hai chức năng này đồng thời giúp VKS đại diện cho Nhà nước giữ quyền công tố để điều tra tội phạm đồng thời thực hiện được việc kiểm sát các hoạt động tư pháp diễn ra trong suốt quá trình điều tra VAHS, từ đó giúp tăng cường pháp chế XHCN

Bài liên quan:

1900.0191