Bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm
1. Thực trạng một số quy định về bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
– Quy định về quyền triệu tập người làm chứng, lời khai của người làm chứng trong hoạt động chứng minh tại phiên toà có ý nghĩa làm rõ nhiều tình tiết của vụ án. Vì vậy thủ tục xét xử quy định tại phiên toà các bên có quyền đề nghị hội đồng xét xử (HĐXX) được triệu tập thêm người làm chứng. Đáng quan tâm là thủ tục xét xử không quy định kiểm sát viên và người bào chữa được triệu tập người làm chứng để chuẩn bị cho phiên tranh tụng, mà chỉ khi diễn ra phiên toà thì họ được đề nghị triệu tập thêm người làm chứng và việc này phải được sự chấp thuận của HĐXX. Do đó không tránh khỏi sự tuỳ nghi của HĐXX. Có trường hợp người bào chữa đề nghị HĐXX triệu tập thêm người làm chứng, nhưng HĐXX cho rằng người đó phải có lời khai trong hồ sơ (để đảm bảotính khách quan) thì mới được chấp nhận.
Vấn đề khác đặt ra là nếu người làm chứng đã được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên toà thì HĐXX giải quyết như thế nào? Trường hợp vắng mặt nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án và có đơn xin vắng mặt trong đó thể hiện giữ nguyên lời khai của mình thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử mà không cần phải hoãn phiên toà. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ án phức tạp đòi hỏi phải có người làm chứng tại phiên toà, dù họ có đơn xin vắng mặt như đã nêu, nhưng Toà án vẫn phải triệu tập họ đến tham dự phiên toà. Mặt khác, các bên có quyền nhờ người làm chứng cho mình hoặc có quyền triệu tập hoặc đề nghị Tòa án triệu tập ra phiên tòa bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tranh tụng, chứ không thể phụ thuộc vào Tòa án và không cần họ phải có lời khai trước đó trong giai đoạn điều tra. Mặt khác, khoản 4 Điều 211 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định, người làm chứng phải ở lại phòng xử án cho đến khi kết thúc phiên tòa để có thể được hỏi thêm. Quy định này là chưa phù hợp, vì nhiều trường hợp người làm chứng trình bày xong thì có thể cho họ rời phòng xử án, không bắt buộc họ ở lại.
– Quy định về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đã hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng của người bào chữa trước phiên tòa. Cụ thể: Người bào chữa không được tham gia nhiều vào các hoạt động điều tra, như hoạt động lấy lời khai, hoạt động hỏi cung, đối chất, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… Hơn nữa, người bào chữa chưa được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giao các quyết định tố tụng và lịch xét xử; cũng như hoạt động nghiệp vụ của họ vẫn bị cản trở vì các cơ quan tổ chức có thẩm quyền không hợp tác đầy đủ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa của họ.
– Quy định về trình bày lời bào chữa, khoản 2 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận đã không đặt ra trường hợp có nhiều người bào chữa cho một bị cáo, thì thực hiện việc trình bày lời bào chữa ra sao? Tính chất của lời bào chữa rất quan trọng. Ở đó tập trung các lập luận của người bào chữa, qua một quá trình nghiên cứu đánh giá chứng cứ công phu, nhằm bảo vệ quan điểm bào chữa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị cáo. Mâu thuẫn của tình tiết, chứng cứ vụ án có được sáng tỏ hay không phụ thuộc vào quan điểm và khả năng lập luận của người bào chữa. Mức độ thuyết phục HĐXX đến đâu cũng phải phụ thuộc nhiều vào lời bào chữa. Cần phải thấy rằng, trên thực tế dù người bào chữa cho bị cáo không có mặt tại phiên tòa, nhưng quan điểm của họ vẫn đươc thực hiện thông qua bản bào chữa được gửi trước. Tại phiên tòa, HĐXX công bố bản bào chữa do người bào chữa gửi trước, thế nhưng lại xảy ra trường hợp quan điểm ở đó không phù hợp với quan điểm của bị cáo tại phiên tòa, ví dụ như đánh giá tình tiết giảm nhẹ, tình tiết làm cơ sở yêu cầu mức bồi thường thiệt hại… Do đó có sự mâu thuẫn giữa quan điểm của người bào chữa với bị cáo, gây lúng túng cho HĐXX và bị cáo.
Cần lưu ý là trường hợp bị cáo không nhờ người bào chữa, thì họ phải tự bào chữa hoặc lựa chọn phương thức từ chối bào chữa, và chủ tọa phiên tòa không buộc bị cáo phải trình bày lời bào chữa. Bên cạnh đó, lưu ý đến trường hợp bào chữa bắt buộc theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là bị cáo được Nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, màkhông yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trường hợp này Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa đưa ra phương thức xử lý. Có thể nói từ chối người bào chữa là quyền của bị cáo. Một mặt họ thích tự bào chữa cho dù họ có thể gặp bất lợi, nhưng họ thấy mình có đủ khả năng để tự bào chữa, hoặc vì một chiến thuật để dành lợi thế mà họ không thích người bào chữa can thiệp vào quá trình tố tụng.
–Quy định về thành phần Hội đồng xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thành phần HĐXX sơ thẩm gồm 01 thẩm phán và 02 hội thẩm; nếu là vụ án phức tạp có thể gồm 02 thẩm phán và 03 hội thẩm. Mục đích của quy định này là khi xét xử bắt buộc phải có hội thẩm tham gia, vì hội thẩm là người đại diện cho ý chí của nhân dân tham gia tố tụng, biểu quyết của họ sẽ làm cho vụ án được khách quan hơn, có lợi cho bị cáo và hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán chuyên nghiệp. Song điều này chưa hẳn đã hoàn toàn là ưu điểm, vì ở đó bị cáo không có quyền lựa chọn thành phần HĐXX. Nếu mở rộng quyền lựa chọn HĐXX chỉ có thẩm phán cũng là một phương thức bảo đảm quyền cho bị cáo. Nếu HĐXX chỉ có thẩm phán thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động áp dụng pháp luật triệt để hơn, hay là có hội thẩm tham gia nhằm đảm bảo tính khách quan hơn trong việc đưa ra phán quyết của Tòa án, tránh lạm quyền từ thẩm phán; hoặc họ muốn tạo ra cho mình một lợi thế nào đó trong quá trình tranh tụng mà không yêu cầu phải có hội thẩm tham gia.
– Quy định về xét xử vắng mặt bị cáo tại phiên tòa, Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định bắt buộc bị cáo phải có mặt tại phiên tòa. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt họ ở ba trường hợp: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa, và nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. Trường hợp thứ ba cho phép xét xử vắng mặt bị cáo, nhưng như thế nào là sự vắng mặt không trở ngại cho việc xét xử thì chưa được giải thích. Do đó hầu như trên thực tiễn Tòa án không vận dụng trường hợp này. Nếu bị cáo vắng mặt thì Tòa án tìm cách áp giải hoặc bắt tạm giam họ với lý do để đảm bảo cho việc xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án.
Quy định tại Điều 187 nêu trên là cứng nhắc, không đảm bảo quyền được xét xử vắng mặt của bị cáo. Nghĩa là bị cáo có quyền lựa chọn phương thức có mặt hay không chỉ đơn giản đó là quyền họ được hưởng hoặc là họ muốn tạo lợi thế cho mình tại phiên tranh tụng, vì họ cho rằng họ không bắt buộc phải tự buộc tội mình. Chúng ta không cần phải lo ngại là phải có bị cáo tại phiên tòa thì vụ án mới được chứng minh đầy đủ, khách quan, bởi vì bên cạnh bị cáo còn có thể có người đại diện, có người bào chữa của họ.
2. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định về bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Một là,kiến nghị bổ sung một điều luật vào Chương XVIII của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003(Quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa) về “Triệu tập người làm chứng”, nhằm khắc phục thực trạng việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa chỉ do Tòa án quyết định, kiểm sát viên và người bào chữa không có quyền triệu tập người làm chứng của riêng mình, ảnh hưởng đến việc chứng minh của họ. Giải pháp này mang yếu tố tranh tụng cao, nó sẽ cân bằng lợi thế và tạo ra sự bình đẳng, dân chủ giữa các bên trong phiên tranh tụng. Lưy ý là Điều luật mới bổ sung sẽ không còn giao quyền triệu tập người làm chứng cho Tòa án, mà chuyển sang cho kiểm sát viên và người bào chữa. Đồng thời mở rộng phạm vi về thời gian triệu tập người làm chứng không những ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, mà trong thời gian đang diễn ra phiên tòa, nếu có yêu cầu thì HĐXX phải thực hiện việc hoãn phiên tòa để thực hiện.
“Điều … Triệu tập người làm chứng
Căn cứ vào lịch xét xử của Tòa án, kiểm sát viên và người bào chữa xem xét quyết định việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa để thực hiện việc chứng minh. Trong quá trình diễn ra phiên tòa cho đến trước khi nghị án hội đồng xét xử xem xét hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người làm chứng theo đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”.
Hai là,kiến nghị bổ sung khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về lựa chọn và thay đổi người bào chữa. Đó là bổ sung thủ tục giải quyết đối với trường hợp bị cáo được Nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, mà vẫn không yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trong trường hợp này cần phải quy định rõ là Tòa án phải giải thích cho bị cáo hiểu về quyền lợi của họ và ghi ý kiến từ chối của bị cáo vào biên bản phiên tòa và vẫn tiến hành giải quyết vụ án có mặt của người bào chữa đã cử. Cụ thể khoản 2 Điều 57 được bổ sung như sau:
“Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa
1. …
2. …
Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho bị cáo hiểu về quyền lợi của họ và ghi ý kiến từ chối người bào chữa của họ vào biên bản phiên tòa và vẫn tiến hành giải quyết vụ án với sự có mặt của người bào chữa đã cử”.
Ba là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó cho phép người bào chữa có quyền thực sự trong việc thu thập chứng cứ. Cụ thể người bào chữa được lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; được thu thập tài liệu, đồ vật và yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp vật chứng, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; người bào chữa được tham dự và ghi nhận dấu vết trong cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chứng kiến việc bắt người, việc khám xét. Người bào chữa tham gia các hoạt động thu thập chứng cứ nêu trên chỉ cần thông báo cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát biết mà không cần phải được sự chấp thuận trước và phải có yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như quy định tại Điều 58 hiện hành, ngoại trừ trường hợp thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác và phải giữ bí mật điều tra theo quy định tại điểm e của Điều khoản này. Đồng thời kiến nghị bổ sung quyền của người bào chữa được nhận bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và lịch xét xử do cơ quan tiến hành tố tụng giao theo thời hạn luật định. Nhằm khắc phục thực trạng người bào chữa phải “xin phô tô”, phải phụ thuộc hoặc thông qua bị cáo thì họ mới biết được thông tin buộc tội của bản kết luận điều tra, cáo trạng, nội dung bản án được tuyên, thời gian mở phiên tòa. Cụ thể loại bỏ điểm d (đưa nội dung quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tài liệu vào thiết kế chung vào điểm a để tránh tản mạn, rườm rà); sửa đổi, bổ sung điểm a; và bổ sung điểm b của khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cụ thể như sau:
“Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
…
2. Người bào chữa có quyền:
a) Có mặt khi cơ quan điều tra, viện kiểm sát lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; được lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án; được yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp vật chứng, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; được tham dự và ghi nhận dấu vết trong cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chứng kiến việc bắt người, việc khám xét; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa và được giao bản kết luận điều tra.
Người bào chữa có thể bị cơ quan điều tra và Viện kiểm sát hạn chế hoặc không được thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ đối với vụ án liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật công tác và phải giữ bí mật điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
b) Người bào chữa tham gia tố tụng được nhận bản kết luận điều tra, cáo trạng, bản án, lịch xét xử do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giao theo thời hạn luật định;
…”.
Bốn là,kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về sự có mặt của người bào chữa theo dịch vụ pháp lý. Theo đó làm rõ chủ thể bào chữa bao gồm: Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý và người bào chữa do Nhà nước cử, và bỏ đi quy định người bào chữa được gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Vì đây là lý do người bào chữa theo dịch vụ pháp lý thường xuyên vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm do vướng nhiều vào hợp đồng dịch vụ pháp lý khác, làm cho phiên tòa bị hoãn, gây ra rất nhiều phiền hà và hao tốn thời gian, chi phí tố tụng. Cụ thể Điều 190 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 190. Sự có mặt của người bào chữa
Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý vắng mặt, Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Người bào chữa do Nhà nước cử theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này nếu vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”.
Năm là,kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa, theo hướng bảo đảm quyền được vắng mặt khi xét xử của bị cáo trong những trường hợp nhất định. Nghĩa là bị cáo có quyền lựa chọn phương thức có mặt hay không tại phiên tòa. Mở rộng quyền được vắng mặt tại phiên tòa cho bị cáo, mà Tòa án vẫn xét xử ở các trường hợp như: Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt trong các vụ án đơn giản, vụ án khởi tố theo yêu cầu người bị hại, hoặc vụ án mà chứng cứ đã rõ ràng bị cáo đã nhận tội, hoặc họ đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự hoặc đã chấp nhận yêu cầu bồi thường dân sự của bên bị hại đưa ra trước khi xét xử. Cụ thể khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được sửa đổi, bổ sung như sau (lưu ý là loại bỏ điểm c của điều khoản này, vì quy phạm này thiếu tính khả thi, đó là trường hợp sự vắng mặt của bị cáo không cản trở việc xét xử):
“Điều 187. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa
…
2. Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;
b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c) Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng có đơn xin xét xử vắng mặt;
d) Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt trong các vụ án phạm tội ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, bị cáo nhận tội, đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự hoặc đã chấp nhận yêu cầu bồi thường dân sự của bên bị hại đưa ra trước khi xét xử; hoặc vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”.
Sáu là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thành phần HĐXX theo hướng mở rộng quy định cho bị cáo quyền được lựa chọn xét xử bởi thẩm phán và hội thẩm hoặc chỉ bởi thẩm phán. Cụ thể Điều 185 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 185. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm
…
Bị cáo có quyền lựa chọn hội đồng xét xử bởi một thẩm phán và hai hội thẩm hoặc chỉ bởi một thẩm phán xét xử. Bị cáo đề nghị việc này với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử”.
ThS. Nguyễn Ngọc Kiện
Giảng viên Trường Đại học Luật – Đại học Huế
Tham khảo thêm:
- Giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Phạm vi điều chỉnh của Luật Phí và lệ phí trong mối quan hệ với luật có liên quan
- Một số kiến nghị về dự thảo Luật Phí và lệ phí
- Đàm phán là biện pháp tối ưu trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông
- Nâng cao chất lượng văn bản quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Sự tham gia của Viện kiểm sát trong các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn
- Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay
- Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh từ những nguyên lý trái quyền
- Hoàn thiện một số nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội
- Bình luận và kiến nghị về “thiệt hại khi tính mạng bị xâm phạm” trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng